1 Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí của Việt Nam là niềm mơ ước của rất nhiều các quốc gia trên thế giới. Với 3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên trải qua 13 vĩ độ từ 823’ vĩ độ bắc đến 2129′ vĩ độ bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam rộng 226000 km và vùng biển đặc quyền kinh tế trên một triệu km rộng gấp 3 lần diện tích đất liên.
Trên vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn như: Cô Tô, Cát Bà, Phú Quốc… là nơi có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch đồng thời đã, đang và sẽ được xây dựng thành một tuyến căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu cần, chu chuyển sản phẩm cho các đội tàu khai thác hải sản, đồng thời là nơi cư trú của tàu thuyền trong mùa mưa bão.
Ngoài ra nước ta còn có 660 nghìn ha vùng nước lợ, đây là môi trường giàu chất dinh dưỡng cho thực vật thủy sinh.. Là nơi cư trú, sinh sản, sinh trưởng của tôm he, tôm nương, tôm rảo, tôm vàng, cá đối, cá vược, cá tráp, cá trai, cá bớp, cua biển…
2 Diện tích nuôi tôm có xu hướng tăng mạnh
Theo Phạm Xuân Thuỷ (2006) năm 2005 diện tích và sản lượng tôm nước lợ trên cả nước phân theo các vùng gồm: ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và ĐBSCL được thống kê trong (Bảng 1). ĐBSCL có diện tích nuôi và sản lượng tôm nước lợ cao nhất so với các vùng nuôi còn lại, trong đó Đông Nam Bộ và ĐBSCL hai vùng nuôi thuộc Nam bộ
Diện tích tôm nuôi nước lợ cả nước năm 2005 là 604.479 ha (Bảng 2) so với năm 1999 tăng 394.031 ha (gấp 1,87 lần), mức tăng bình quân 31,2% /năm. Các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nuôi tôm nước lợ lớn nhất là 535.145 ha (năm 2005) (chiếm 88,53% diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước).
Theo nguồn số liệu của Tổng cục thống kê, sản lượng tôm nước lợ tại Nam Bộ các năm từ 2007 -2009 đạt trên 300.000 tấn. Trong khi các năm từ 1995 – 1999 mới chỉ dưới 50.000 tấn (hình 1)
Theo thống kê của Bộ NN & PTNT, tính đến tháng 8-2008 tổng diện tích nuôi tôm nước lợ của các tỉnh ven biển ĐBSCL là 539.607ha, chiếm 89,3% tổng diện tích cả nước; trong đó, nuôi tôm sú là 538.800ha, tôm thẻ chân trắng 807ha. Diện tích nuôi tôm sú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Cà Mau (257.000ha), Bạc Liêu (121.811ha) và Kiên Giang (77.218ha)…
ĐBSCL có 46.257ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, diện tích còn lại là nuôi tôm quảng canh và quảng canh cải tiến (Cà Mau và Bạc Liêu tập trung nhiều nhất, 90%). Các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, diện tích nuôi tôm sú là 18.843ha và nuôi tôm chân trắng là 129ha.
Sản lượng thu hoạch, tính riêng khu vực ĐBSCL là 160.566 tấn, chiếm 76,3% tổng sản lượng thu của cả nước, chủ yếu là tôm sú. Các tỉnh có sản lượng tôm sú cao là Cà Mau (68.500 tấn), Bạc Liêu (36.211 tấn), Kiên Giang (13.623 tấn)… Năng suất nuôi tôm sú thâm canh trung bình 3-4 tấn/ha/vụ 4 tháng.
Năm 2010, diện tích nuôi tôm sú trong vùng đạt hơn 560 nghìn ha, sản lượng hơn 293 nghìn tấn; trong đó, tỉnh Cà Mau có gần 247 nghìn ha, Bạc Liêu 117.364 ha, Kiên Giang hơn 72 nghìn ha… Từ năm 2000 đến nay, các tỉnh đã chuyển hơn 300 nghìn ha ruộng trũng trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS; riêng năm 2006, chuyển gần 6.500 ha.
Diện tích nuôi tôm sú năm 2010 giảm gần 16.000 ha so với năm 2009 do hệ thống tiêu thoát nước thải chưa đáp ứng nhu cầu và chưa ngăn chặn được dịch bệnh
Tháng 8/2010, sản lượng thu hoạch tôm nước lợ đã đạt 222.480 tấn, trên khoảng 39% diện tích. Như vậy, với 61% diện tích tôm chưa thu hoạch cùng với cùng với diện tích nuôi thêm trong 4 tháng cuối năm, sản lượng tôm nước lợ nuôi năm nay có thể đạt tới 500.000 tấn.
Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì hướng đi trong tương lai của đồng bằng ven biển Nam Bộ là phát triển nuôi tôm sú theo chiều sâu. Đến năm 2015, có 546.000 ha vào nuôi tôm sú, giảm 768 ha so với năm 2010 nhưng sản lượng sẽ đạt 463.000 tấn, 80% sản lượng sẽ được xuất khẩu với giá trị hàng năm ít nhất là 1,5 tỉ USD.
Hình thức nuôi phổ biến là quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh, thâm canh. Trong đó, diện tích nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm khoảng 20% diện tích để sản lượng nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm 51% tổng sản lượng tôm, sản lượng nuôi quảng canh cải tiến chiếm 35%, sản lượng tôm lúa, tôm rừng chiếm 14% tổng sản lượng.
Năng suất tôm nuôi quảng canh phấn đấu từ 0,35-0,45 tấn/ha, nuôi quảng canh cải tiến trên ruộng lúa (tôm lúa) đạt từ 0,4-0,5 tấn/ha, nuôi tôm rừng 0,15-0,20 tấn/ha, nuôi thâm canh-bán thâm canh đạt trung bình 2,0-3,5 tấn/ha. Hiện tại năng suất tôm nuôi trung bình của vùng đạt 0,7 tấn/ha/năm và phấn đấu đến năm 2015 đạt 0,85 tấn/ha.
Đến hết tháng 8 năm 2013, ước diện tích nuôi tôm cả nước đạt 600.000 ha, trong đó diện tích nuôi tôm sú là 570.000 ha, tôm thẻ chân trắng là 25.200 ha. Sản lượng thu hoạch tôm ước đạt 133.000 tấn, trong đó tôm sú là 93.000 tấn, tôm thẻ chân trắng là 40.000 tấn.
Về mặt hàng tôm thẻ chân trắng, 7 tháng đầu năm xuất khẩu tăng 51,5% so với cùng kỳ năm 2012 (đạt 609 triệu USD) và chiếm 43,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam, trong khi xuất khẩu tôm sú chỉ tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2012
3 Sản phẩm đã đáp ứng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu
Bộ thủy sản đã ban hành hàng loạt các tiêu chuẩn ngành về điêù kiện đảm bảo an toàn vệ sinh của tàu cá, cảng cá, chợ cá, cơ sở thu mua, cơ sở sản xuất nước đá, sơ chế thủy sản, kho lạnh, cơ sở bán lẻ… Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm tương đương với tiêu chuẩn cuả các nước nhập khẩu. Công tác kiểm tra, kiểm soát về an toàn vệ sinh thực phẩm đã được chuyển đổi từ kiểm tra sản phẩm cuối cùng sang quản lí và thực hiện các biện pháp về an toàn vệ sinh thực phẩm theo hệ thống xuyên suốt từ khâu sản xuất nguyên liệu đến thu mua và chế biến xuất khẩu.
Với sự nỗ lực của các cơ quan quản lí cùng các doanh nghiệp, tháng 11/1999 Việt Nam đã chính thức được công nhận vào danh sách các nước xuất khẩu thủy sản vào EU với 18 doanh nghiệp. Đến nay đã nâng lên 153 đơn vị có code xuất khẩu đi EU chiếm 38,7% trong tổng số cơ sở chế biến hiện có, khoảng 300 đơn vị áp dụng HACCP đủ tiêu chuẩn xuất hàng vào Mỹ. Những doanh nghiệp này có giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành.
Những nỗ lực đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ của riêng Nhà nước mà từ các doanh nghiệp, sản phẩm tôm Việt Nam đã và đang tiến xa hơn và có thể xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường thủy sản Mỹ.
4 Đã có một số công nghệ cao trong chế biến và nuôi trồng
Rào cản lớn cho xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ hiện nay là Mỹ đã đưa ra các quy định về tiêu chuẩn chất lượng ngặt nghèo mà những quy định này chủ yếu đối với các sản phẩm có nguồn gốc nuôi trồng. Vì vậy để đảm bảo chất lượng cho hàng tôm xuất khẩu thì công tác nuôi trồng phải được xem là một quá trình đòi hỏi phải làm tốt ở tất cả các khâu: từ chuẩn bị khu nuôi, công tác giống, thức ăn, quá trình chăm sóc, theo dõi bệnh trong quá trình nuôi, thu hoạch và vận chuyển đến khu chế biến.
Hiện nay ngành thủy sản đã tập trung nghiên cứu công nghệ sản xuất giống những đối tượng giá trị xuất khẩu như tôm sú, tôm rảo, tôm càng xanh… trong đó một số đối tượng đã đi vào sản xuất đại trà. Đồng thời cũng đã nhập khẩu công nghệ sản xuất giống tôm thể chân trắng… bước đầu có kết quả khả quan.
Cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành chế biến tôm phát triển khánhanh. Năm 2000 cả nước có 272 cơ sở chế biến thủy sản, trong đó có 246 cơ sở chế biến đông lạnh, 65 dây chuyền IQF, với tổng công suất cấp đông là 2000 tấn/ngày. Cuối năm 2002 tổng số doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh là 235 với tổng công suất là 3147 tấn/ngày. Phân chia theo vùng như sau miền Bắc 4%, miền Trung 27,2%, miền Nam 68,8%. Như vậy các cơ sở chế biến về cơ bản đã được xây dựng theo quy hoạch. Đa số các cơ sở chế biến đều có nhà xưởng,nhà kho, trang thiết bị, dụng cụ vệ sinh, hệ thống xử lí nước thải, trang thiết bị kiểm tra sản phẩm đều đạt tiêu chuẩn chất lượng. Nhiều cơ sở tiến hành sản xuất theo phương thức công nghiệp. Việc áp dụng hệ thống quản lí chất lượng và các quy định về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng phổ biến.
Qua việc phân tích các điểm mạnh của tôm Việt Nam chúng ta thấy rõ được những ưu thế của sản phẩm. Từ những lợi thế về điều kiện tự nhiên, đa dạng hóa về sản phẩm… cho đến những nỗ lực đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, tôm Việt Nam có thể tự tin bước vào thị trường Mỹ, Nhật Bản. Nếu phát huy được những lợi thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh thì tôm Việt Nam sẽ ngày càng tiến xa hơn nữa không chỉ trên thị trường Mỹ,Nhật Bản mà còn nhiều thị trường lớn khác nữa.
5 Các doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu ngày một nhiều và có sản lượng cao.
Ví dụ tình hình sản xuất tôm xuất khẩu ở công ty Thông thuận – Ninh Thuận
Với thế mạnh trong lĩnh vực tôm giống và tôm thương phẩm và nguồn nguyện liệu chủ động, chất lượng, năm 2009 công ty đã mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực chế biến xuất khẩu thủy sản. Đến nay, công ty đã có 2 nhà máy đang hoạt động với sản phẩm đầu ra đạt đầy đủ các tiêu chuẩn khắt khe của quốc tế như Global GAP 3 sao, ACC 3 sao, HACCP, IFS, HALA… tạo ra nguồn sản phẩm thủy sản xuất khẩu chất lượng xuất khẩu sang các thị trường lớn trên toàn thế giới, đặc biệt là các thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ, Trung Đông, Hàn Quốc,v.v…
Hiện tại, công ty đang đầu tư xây dựng nhà máy chế biến tôm số 2 tại cụm công nghiệp Thanh Hải, tp Phan Rang – Tháp Chàm dự kiến đi vào hoạt động vào quý 2 năm 2013.
Ngoài ra, công ty còn đang xúc tiến đầu tư thêm một nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu Thông Thuận – Kiên Giang tại khu công nghiệp Thạnh Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang
Thông Thuận – Ninh Thuận với 2 nhà máy chế biến:
Nhà máy chế biến số 1 tại số 104, Ngô Gia Tự, tp Phan Rang – Tháp Chàm. Hiện có hơn 1.000 công nhân làm việc ổn định với công suất trên 3.000 tấn thành phẩm/ năm, tương đương doanh số trên 20 triệu USD/ năm.
Nhà máy chế biến số 2: được xây dựng trên diện tích 33.000 m2 với tổng số vốn đầu tư 260 tỉ. Theo thiết kế, khi đi vào hoạt động, nhà máy sản xuất 8.000 tấn thành phẩm/ năm, tương đương doanh số trên 50 triệu USD/ năm. Cung cấp việc làm ổn định cho hơn 2.000 lao động địa phương và là nhà máy chế biến tôm lớn nhất khu vực miền Trung.
Trực thuộc công ty cổ phần thủy sản Thông Thuận – Cam Ranh. Nhà máy chế biến có vị trí tại lô A1,A11, A12, A13, A14 khu công nghiệp Suối Dầu, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa. Với số cán bộ công nhân viên trên 1.500 người. Có công suất 4.600 tấn thành phẩm/ năm. Doanh số 30 triệu USD/ năm.
Thông Thuận – Kiên Giang : Được thiết kế với 2 phân xưởng chế biến + Phân xưởng chế biến tôm xuất khẩu với sản lượng hàng năm lên đến 7.000 – 8.000 tấn thành phầm/ năm. Dự kiến sẽ bước vào hoạt động năm 2014 và doanh số hằng năm lên đến 50 triệu USD/ năm.
Phân xưởng chế biến cá xuất khẩu với sản lượng hàng năm lên đến 7.500 – 8.000 tấn thành phẩm/ năm. Theo kế hoạch, phân xưởng chế biến cá sẽ đi vào hoạt động năm 2015 với năng lực chế biến lên tới 20 triệu USD/ năm. Khi đi vào hoạt động, nhà máy sẽ cung cấp việc làm ổn định cho 3.000 lao động địa phương, đồng thời bảo đảm đầu ra ổn định cho sản phẩm từ các farm nuôi của công ty với dự kiến sẽ lên đến 10.000 – 13.000 tấn tôm nguyên liệu/năm vào năm 2014.
Để lại một bình luận