1. Các tài sản tài chính
Trong một nền kinh tế được tiền tệ hoá ở mức độ cao như kinh tế thị trường, khái niệm tài sản bao hàm một nội dung kinh tế khá rộng. Một tài sản, nói theo nghĩa rộng, là bất cứ vật sở hữu gì mà có giá trị trong trao đổi. Nói đến tài sản phải kể đến tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là tài sản có giá trị phụ thuộc vào những đặc tính vật chất riêng biệt. Thuộc về tài sản hữu hình là nhà cửa, đất đai hoặc máy móc thiết bị. Tài sản hữu hình có thể được phân loại thêm thành tài sản có thể tái sản xuất như máy móc thiết bị và những tài sản không thể tái sản xuất như đất đai, hầm mỏ, tác phẩm nghệ thuật. Khác với tài sản hữu hình, tài sản vô hình tượng trưng cho các trái quyền hợp pháp – quyền đòi phải hoàn trả một số tiền, quyền đòi thực hiện một nghĩa vụ – đối với các khoản lợi nhuận trong tương lai. Giá trị của các tài sản vô hình không có sự liên quan gì tới hình thức, nội dung vật chất mà người sử dụng để ghi nhận các chứng chỉ hữu hình nhưng tự bản thân tài sản tài chính lại không có giá trị. Đúng ra, giá trị của các tài sản tài chính dựa trên giá trị của dòng thu nhập được tạo ra bởi các tài sản thật. Các tài sản tài chính cũng còn được gọi là các công cụ tài chính hoặc các chứng khoán là các tài sản vô hình.
Mặc dù có hàng nghìn loại tài sản tài chính khác nhau nhưng, theo Peter S. Rose [113, p.24], tựu trung có thể chia các tài sản tài chính ra làm 3 nhóm: Tiền, chứng khoán góp vốn (hay chứng khoán sở hữu), chứng khoán cho vay (hay chứng khoán nhận nợ).
2. Tiền
Trong các nền kinh tế tiền tệ, bất cứ tài sản tài chính nào được thừa nhận một cách rộng rãi như một phương tiện thanh toán hàng hoá, dich vụ hoặc để thanh toán nợ nần đều được gọi là tiền [113,p.24], [115,p.9]. Định nghĩa này nhấn mạnh yếu tố niềm tin, yếu tố tâm lý bao hàm trong khái niệm tiền tệ. Trong lịch sử, đã có nhiều thứ hàng hoá khác nhau được sử dụng như tiền bởi vì người ta tin tưởng vào giá trị của chúng và sẵn sàng thừa nhận chúng khi thanh toán.
Theo truyền thống, phần lớn các nhà kinh tế đã định nghĩa tiền là tất cả các loại tiền giấy, tiền xu do công chúng nắm giữ, tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại và các định chế nhận tiền gửi khác. Tài sản tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường là tiền. Tiền tự bản thân nó là một tài sản tài chính thật sự bởi vì tất cả các dạng tiền tệ mà chúng ta sử dụng hôm nay đều là những trái quyền (quyền đòi chi trả) đối với các định chế phát hành ra nó. Bởi vì tất cả các tài sản tài chính được đánh giá bằng tiền và vì các dòng lưu chuyển vốn giữa người cho vay và người đi vay diễn ra qua trung gian của tiền tệ cho nên có thể nói rằng, tài sản tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế là tiền.
3. Các chứng khoán vay nợ
Loại tài sản tài chính thứ hai là các chứng khoán vay nợ. Thuộc về nhóm tài sản tài chính này là các trái phiếu, các khoản phải thu và tiền gửi tiết kiệm. Trái phiếu là giấy chứng nhận về một khoản vay do người cho vay (người sở hữu trái phiếu) dành cho người đi vay (người phát hành trái phiếu). Cũng giống như vay ở các ngân hàng, theo quy định, để có thể vay nợ thông qua việc phát hành trái phiếu, người phát hành phải đưa ra một cam kết có tính rằng buộc về mặt pháp lý dưới hình thức một bản giao kèo ủy thác tài sản hoặc một chứng thư ủy thác tài sản mà theo đó người nhận uỷ thác, thường là các ngân hàng thương mại, để đại diện cho quyền lợi của người giữ trái phiếu. Nếu người phát hành trái phiếu không có khả năng trả lãi và số tiền nợ gốc (mệnh giá nợ) thì người được uỷ nhiệm có quyền đua các chủ nợ vỡ nợ ra toà.
Các chứng khoán nợ thường được phân làm hai loại: các chứng khoán nợ có thể chuyển nhượng được và các chứng khoán nợ không thể chuyển nhượng được. Chứng khoán nợ có thể chuyển nhượng được là chứng khoán có thể được dễ dàng chuyển nhượng từ người sở hữu này sang người sở hữu khác như một chứng khoán khả mại.
Ngược lại, chứng khoán nợ không thể chuyển nhượng là loại chứng khoán không thể chuyển nhượng một cách hợp pháp.
4. Các chứng khoán góp vốn
Các chứng khoán góp vốn, thường được gọi là cổ phiếu, tượng trưng cho những cổ phần sở hữu trong một doanh nghiệp. Đó là “ những trái quyền (claims) đối với lợi nhuận của một doanh nghiệp” [113,24]. Giữ một chứng khoán góp vốn trong tay có nghĩa là người giữ chứng khoán sở hữu một phần tài sản của một công ty. Cũng vì vậy, chỉ có cổ phiếu công ty, không có cổ phiếu của chính phủ hoặc chính quyền địa phương, vì các cá nhân không thể “sở hữu” chính phủ (ít nhất là trên phương diện pháp lý).
Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiến ưu đãi. Thông thường, tất cả các công ty đều phát hành cổ phiếu thường. Về bản chất, cổ phiếu thường tượng trưng cho quyền sở hữu chủ yếu đối với một công ty vì loại cổ phiếu này cho phép các cổ đông được quyền bỏ phiếu bầu các thành viên của Hội đồng quản trị và xác định các chính sách của công ty. Đổi lại, người sở hữu cổ phiếu này chỉ có quyền hưởng lợi tức sau khi cả các loại chứng khoán khác đã được trả. Vì vậy, trong trường hợp một công ty bị giải thể thì người sử hữu cổ phần thường là người có những quyền sau cùng đối với tài sản của công ty. Nếu một công ty bị buộc phải phá sản thì những người nắm giữ những chứng khoán cao cấp như các trái phiếu sẽ có quyền ưu tiên được chia những tài sản còn lại của công ty.
Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hơn hẳn cổ phiếu thường ở hai điểm: (1) được ưu tiên nhận lãi theo một tỷ lệ đã được ấn định trước khi cổ tức được chi trả cho các cổ phiếu thường và (2) quyền ưu tiên đối với phần tài sản còn lại của công ty nếu công ty được đặt trong tình trạng phá sản. Như vậy, cổ phiếu ưu đãi giống như một loại trái phiếu cấp thấp nhưng không có bảo đảm giống như bảo đảm của trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi cũng không có sự hấp dẫn giống như cổ phiếu thường.
Để lại một bình luận