Giá trị tài sản con người
Khi nhìn vào bảng báo cáo kế toán đế tìm hiếu về một công ty, nhiều người luôn đặt câu hỏi về khả năng phản ánh giá trị vốn con người và tiềm năng lợi nhuận của bảng cân đối kế toán truyền thống. Điều này đặc biệt đúng đối với các công ty cần nhiều vốn kiến thức: bí quyết sản xuất của lực lượng lao động, tài sản trí tuệ, giá trị thương hiệu, và các mối quan hệ với khách hàng; tất cả đều là tài sản thực sự hữu ích của công ty. Đáng tiếc là những loại tài sản vô hình này không được nêu rõ trong bảng cân đối kế toán.
Trước tình trạng bảng cân đối kế toán ngày càng thiếu phù hợp trong việc phản ánh giá trị thực tế, vào tháng 1 năm 2000, ông Alan Greenspan – Chủ tịch Uỷ ban Dự trữ Liên bang Mỹ, đã lên tiểng than phiền rằng kế toán không có khả năng theo dõi các khoản đầu tư về “tài sản tri thức”. Cựu chủ tịch SEC, ông Arthur Levitt, đồng ý với nhận định của ông Greenspan: “Vì tài sản vô hình phát triển về kích thước và phạm vi, ngày càng có nhiều người nêu ra câu hỏi liệu các giá trị thực – và động cơ của các giá trị này – có được phản ánh kịp thời trong các bảng báo cáo công khai không”. Thực vậy, một
BÁO CÁO THU NHẬP
Báo cáo thu nhập thể hiện các kết quả hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định. Cụm từ “khoảng thời gian nhất định” có ý nghĩa quan trọng. Không giống như bảng cân đối kế toán, vốn là bảng tóm tắt vị trí của doanh nghiệp tại một thời điểm, báo cáo thu nhập phản ánh kết quả tích lũy của hoạt động kinh doanh trong một khung thời gian xác định. Nó cho biết liệu doanh nghiệp đó kiếm được lợi nhuận hay không – nghĩa là liệu thu nhập thuần (lợi nhuận thực tế) dương hay âm. Đó là lý do tại sao báo cáo thu nhập thường được xem là báo cáo lỗ lãi. Ngoài ra, nó còn phản ánh khả năng lợi nhuận của công ty ở cuối một khoảng thời gian cụ thể – thường là cuối tháng, quý hoặc năm tài chính của công ty đó. Đồng thòi, nó còn cho biết công ty đó chi tiêu bao nhiêu tiền để sinh lợi – từ đó bạn có thể xác định được tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu của công ty đó.
Báo cáo thu nhập được thể hiện bằng một biểu thức đơn giàn như sau:
Doanh thu – Chi phí = Thu nhập thuần (hoậc Lỗ thuần). Một báo cáo thu nhập bắt đầu bằng doanh thu: số tiền thu được từ việc bán hàng hóa và dịch vụ cho khách hàng. Một công ty cũng có thể có các khoản doanh thu khác. Trong nhiều trường hợp, những khoản này đến từ các khoản đầu tư hoặc thu nhập lãi suất từ số dư tiền mặt sau đó, lấy doanh thu này trừ đi những chi phí khác – từ chi phí sản xuất và lưu kho hàng hóa, đến việc khấu hao nhà xưởng và trang thiết bị, chi phí lãì suất và thuế. Số tiền còn lại là thu nhập thuần, hay còn gọi là lợi nhuận thuần, trong thời gian lập báo cáo.
Hãy xem xét ý nghĩa của các mục khác nhau trên báo cáo thu nhập của Công ty Amalgamated (bảng 1-2). Giá vốn hàng bán là những khoản mà Công ty Amalgamated dùng để sản xuất giá treo. Con số này bao gồm chi phí nguyên vật liệu thô, như gỗ, cũng như toàn bộ chi phí chế biến thành phẩm, gồm cả chi phí lao động trực tiếp. Lấy doanh thu bán hàng trừ giá vốn hàng bán, ta được lợi nhuận gộp – ước tính sơ bộ về khả năng lợi nhuận của công ty đó.
Loại chi phí quan trọng kế tiếp là chi phí hoạt động. Chi phí hoạt động bao gồm lương nhân viên hành chính, tiền thuê, chi phí bán hàng và tiếp thị, và những chi phí kinh doanh khác không trực tiếp quy vào chi phí sản xuất sản phẩm. Gỗ để sản xuất giá treo không được tính vào đây, mà chi bao gồm chi phí quảng cáo và lương nhân viên.
Khấu hao được tính trong báo cáo thu nhập như một khoản chi phí, dù nó không liên quan đến các khoản thanh toán tiền mặt. Như đã nêu trên, khấu hao là cách ước tính “mức tiêu thụ” của một tài sản, hoặc việc giảm giá trị trang thiết bị theo thòi gian. Ví dụ, một chiếc máy vi tính mất khoảng 1/3 giá trị trong năm đầu sau khi mua. Vi vậy, công ty không thể tiêu tốn toàn bộ giá trị của chiếc máy tính trong năm đầu mà trên thực tế nó được sử dụng trong ba năm. Ý tưởng đằng sau khấu hao này là nhằm nhận ra giá trị bị sụt giảm của một tài sản nào đó.
Lấy lợi nhuận gộp trừ chi phí hoạt động và khấu hao, ta được lợi nhuận hoạt động. Những khoản lợi nhuận này thường được gọi là lợi nhuận trước thuế và lãi vay (FBIT).
Chúng ta tiếp tục xem những khoản giảm trừ cuối cùng đối với doanh thu. Chi phí lãi suất là lãi suất phải trả từ các khoản vay mà một công ty sử dụng. Thuế thu nhập – thuế thu bởi Chính phủ trên thu nhập của công ty, là khoản cuối cùng phải nộp.
Phần doanh thu còn lại được gọi là thu nhập thuần, hoặc lợi nhuận thực tế. Nếu thu nhập thuần có giá trị dương như trong trường hợp của Công ty Amalgamated thì công ty sẽ thu được lợi nhuận.
Để lại một bình luận