Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài với sự kiểm soát cao. Công ty đầu tư vốn cổ phần hoặc vốn vào các quốc gia khác nhằm mục đích xây dựng hoặc mua lại các nhà máy sản xuất, các công ty con, văn phòng bán hàng hoặc các cơ sở cần thiết khác. Quyền sở hữu ở nước ngoài về các cơ sở nhà xưởng cho phép công ty duy trì sự hiện diện của mình và bảo đảm sự kết nối trực tiếp với khách hàng và đối tác. Về phương diện này, FDI là một dạng vốn cổ phần hay quyền sở hữu của việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Việc hiện diện ở nước sở tại là rất cấp bách khi mà các hoạt động chuỗi giá trị quan trọng phải được tiến hành trên thị trường. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là phương thức thâm nhập có liên quan chặt chẽ nhất với doanh nghiệp đa quốc gia. Những hãng lớn như Sony,
Nestle, Nokia, Motorola và Toyota đều mở rộng các hoạt động giao dịch tài chính dựa trên hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài trên khắp thế giới. Trong khi một số hình thức đầu tư nước ngoài nhất định đã trở nên phổ biến với cả các công ty sản xuất lẫn những nhà cung cấp dịch vụ, các nhà sản xuất có xu hướng thành lập những cơ sở sản xuất ở nước ngoài, còn những hãng về dịch vụ thường tạo lập mối quan hệ đại lý và những cơ sở bán lẻ.
Samsung, hãng sản xuất đồ điện tử khổng lồ của Hàn Quốc, đã tiến hành thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ qua FDI vào năm 1984. Qua thời gian, công ty này đã sử dụng FDI để xây dựng các nhà máy chi phí thấp ở Mexico, Đông Nam Á và Đông Âu. Vào những năm thập kỉ 90, thông qua mua lại Samsung đã có khả năng để phát triển và sản xuất chất bán dẫn. Hãng đã dùng FDI để thành lập 10 trung tâm R&D – ở Anh, Trung Quốc, Ấn Độ, Isarel, Nhật Bản, Nga và Mỹ- qua đó dẫn đường cho sự phát triển của những công nghệ hàng đầu trong đồ gia dụng và phương tiện số hóa, viễn thông và chất bán dẫn. Phần lớn doanh số bán hàng của Samsung là từ các thị trường nước ngoài – từ Châu Á(42%), Châu Âu (24%) và Hoa Kỳ (15%) – do có những điều kiện thuận lợi từ gần 38 chi nhánh bán hàng ở nước ngoài của hãng. Samsung còn có 26 nhà máy chế tạo và ba trung tâm logistics ở nước ngoài – tất cả đều được thành lập thông qua FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không nên bị nhầm lẫn với đầu tư chứng khoán quốc tế hay đầu tư chứng khoán nước ngoài. Đầu tư chứng khoán quốc tế (International portfolio investment) là quyền sở hữu chứng khoán nước ngoài thụ động như là cổ phiếu và trái phiếu nhằm mục đích thu được lợi nhuận tài chính. Nó là một dạng của đầu tư quốc tế, nhưng không phải là đầu tư trực tiếp với quyền kiểm soát việc kinh doanh ở nước ngoài và đưa ra những cam kết dài hạn. Liên Hợp Quốc đưa ra tiêu chuẩn là công ty phải sở hữu ít nhất 10% doanh nghiệp được đầu tư để phân biệt FDI với đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, con số này dễ gây nhầm lẫn do nhà đầu tư không nắm được quyền kiểm soát trừ khi họ sở hữu hơn 50% liên doanh nước ngoài.
Những đặc điểm chính của FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được mô tả bởi sáu nét đặc trưng:
Unilever không phải là trường hợp duy nhất có những trách nhiệm xã hội tại những nước mà hãng kinh doanh. Rất nhiều doanh nghiệp đa quốc gia khác đang hưởng ứng lại với những chương trình nghị sự toàn cầu như tính bền vững – chương trình về việc đáp ứng những nhu cầu của con người mà không gây hại đến các thế hệ tương lai. Ví dụ, các hãng sản xuất ô tô như Toyota, Renault và Volkswagen đang đầu tư vào công nghệ sạch và sử dụng nhiên liệu hiệu quả. Nokia đi đầu trong việc dần dần xóa bỏ các nguyên vật liệu độc hại. Dell là một trong những hãng đi tiên phong trong việc chấp nhận những ổ PC cũ từ khách hàng và tái chế chúng miễn phí. GlaxoSmithKline và Merck cung cấp thuốc điều trị AIDS với giá vốn. Suncor Energy hỗ trợ những người Hoa Kỳ bản xứ giải quyết những vấn đề xã hội và sinh thái ở cực bắc của Canada.
Sáu đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chúng ta vừa xem xét đã đem lại những thách thức to lớn cho các doanh nghiệp. Thậm chí cả những công ty lớn có uy tín như Disney cũng đã nếm trải một vài thất bại trong những phi vụ đầu tư ra nước ngoài của mình. Như tạp chí Fortune đã đề cập, hồ sơ của công ty trong việc điều hành các hoạt động của các công viên giải trí ở nước ngoài là kém đồng đều hơn so với 101 Dalmatians. Khi Disney mở Tokyo Disneyland, ban quản lý của hãng giả thiết một cách thiếu chính xác rằng những kinh nghiệm của Disneyland không thể được chuyển giao sang Nhật thành công. Thay vì đầu tư, Disney đã lựa chọn giấy phép bản quyền ở Nhật cho lợi nhuận danh nghĩa. Nhưng sau đó Tokyo Disneyland đã thành công rực rỡ. Không muốn lặp lại sai lầm, ban quản lý lại duy trì một nguồn vốn FDI ở công viên giải trí tiếp theo của hãng – Disneyland Paris. Nhưng đây lại là một thất bại của Disney. Từ những bài học rút ra qua những kinh nghiệm trên, công viên giải trí mới nhất, Hong Kong Disneyland đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, một phần vì nhượng bộ với Chính phủ Trung Quốc, Disney chỉ sở hữu 43% liên doanh. Và ban quản lý đang lo lắng về những vi phạm tài sản trí tuệ ở Trung Quốc có thể sẽ dẫn đến làm giảm lợi nhuận từ việc cấp giấy phép cho những bộ phim của Disney, các nhân vật hoạt hình và các tài sản giá trị khác.
Để lại một bình luận