Các DN may chỉ có thể thực hiện tốt TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ để phát triển nhanh và bền vững trong TMQT ở các giải pháp được đề xuất từ mục 4.3 đến 4.4 với các điều kiện thực hiện thuận lợi. Các điều kiện nội tại hay chính là các nhân tố chủ quan cần được cải thiện cấp bách để thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ tại các DN may được vận hành hiệu quả như:
Đổi mới quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp về thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Lãnh đạo là người tiên phong, là thuyền trưởng trong mỗi DN may. Việc thực hiện phải bắt nguồn từ lãnh đạo DN. Nếu lãnh đạo DN không tin tưởng vào lợi ích của việc thực hiện không tiên phong thực hiện, hay hỗ trợ các hoạt động thực hiện tại chính DN thì không thể thực hiện thành công. Do vậy, lãnh đạo DN cần:
Một là, lãnh đạo DN cần mở rộng tầm nhìn mang tính “chiến lược”. Vì những lợi lâu dài trong làm ăn và đối xử với bên liên quan bền chặt – NLĐ. Kết quả của những ứng xử có trách nhiệm này đó là: quan hệ lao động lành mạnh, tạo niềm tin với khách hàng, hình ảnh và uy tín được cải thiện… đó là những lợi ích mà ngay lập tức không có đồng tiền nào có thể mua được. Đó là kết quả của quá trình đầu tư của các nhà lãnh đạo có “tâm, tầm, tài”. Bên cạnh đó cần nâng cao sự nhạy bén và khả năng nắm bắt thông tin về sự thay đổi của môi trường. Từ đó lãnh đạo DN nhanh chóng nắm bắt thông tin về các nguồn lực bên trong DN, về thị trường, hoạt động TMQT để thực hiện các mục tiêu đề ra.
Hai là, đổi mới quan điểm thực hiện của lãnh đạo DN. Theo đó, thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ không phải chỉ là nghĩa vụ, quy định để dành được hợp đồng gia công mà phải được xem như là một trong những chiến lược kinh doanh hàng đầu của DN. Triển khai tốt TNXH của DN không những sẽ giúp cho DN kinh doanh tốt mà còn hỗ trợ DN giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược liên quan đến kinh doanh và các vấn đề: HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp. Đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn lao động quốc tế khi gia nhập CPTPP, EVFTA (FTA giữa Việt Nam -EU).
Ba là, lãnh đạo các DN may cần chủ động thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Tại các DN may việc đổi mới quan điểm cần đi đôi với thực hiện một cách đúng bản chất và phải được chuyên môn hóa ngay từ hoạch định đến kiểm soát. Đây được coi là giải pháp “mở khóa” để thực hiện. Bởi nắm rõ được quá trình triển khai tất yếu sẽ tăng cường được hiệu quả thực hiện, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và đây chính là một hoạt động “đầu tư thông minh” để thực thi sứ mệnh thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ đầy ý nghĩa trong chặng đường phát triển bền vững của các DN may.
Bốn là, lãnh đạo cần phối hợp nhịp nhàng giữa thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ và các hoạt động quản trị nhân lực trong DN. Trong đó việc thực hiện HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp dựa trên việc chuẩn hóa hoạt động quản trị nhân lực từ khâu tuyển dụng nhân lực, bố trí, sắp xếp nhân lực, đãi ngộ nhân lực. Tích hợp các công cụ và kỹ thuật quản trị nhân lực như phân tích công việc, khung năng lực, mô hình HRBP, KPIs, BSC.
Năm là, lãnh đạo tại các DN may Việt Nam cần phối kết hợp các phong cách lãnh đạo. Trong thực tế, mỗi nhà lãnh đạo DN thường có những cách riêng. Tuy nhiên, mỗi phong cách lãnh đạo nói trên đều có những ưu và nhược điểm. Do vậy lãnh đạo tại các DN cần phối hợp hài hòa, ứng biến với các phong cách lãnh đạo như: mệnh lệnh dân chủ, tự do để lãnh đạo thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ hợp lý trong từng chương trình, từng giai đoạn. Khi lựa chọn phong cách lãnh đạo nào, các lãnh đạo DN cần cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố như mức độ áp lực công việc, trình độ, phẩm chất, kỹ năng của NLĐ để xóa bỏ vách ngăn giữa người làm chủ với người làm thuê.
Tăng cường chiến lược kinh doanh định hướng trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Hoạch định chiến lược kinh doanh khơi nguồn từ việc xác định các mục tiêu chủ yếu dài hạn của các DN may. Hiện nay, dòng chảy của quá trình hội nhập là phát triển hướng đến phát triển bền vững và thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Vì vậy, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ được coi là một yếu tố quan trọng như những yếu tố truyền thống khác như chi phí, chất lượng và tiến bộ trong kinh doanh.
Theo Ian Wilson chiến lược kinh doanh của các DN có trách nhiệm đối với bối cảnh có điều kiện thay đổi là các loại chiến lược với mức độ chủ động ngày càng cao theo thứ tự bao gồm: (1) – Chiến lược phản ứng; (2) – Chiến lược phòng vệ; (3) – Chiến lược thích nghi; (4) – Chiến lược dự báo. Trên cơ sở nghiên cứu TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của DN việc hoạch định chiến lược mà các DN may cần quan tâm trong chiến lược kinh doanh của mình (xem bảng 4.5).
Nội dung TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ được lồng ghép vào chiến lược, hoạch định chiến lược của DN và trở thành điều kiện bắt buộc để DN tồn tại và phát triển. Vì thế khi các DN may hoạch định chiến lược cần phải chọn lựa phân bổ các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đề ra trong đó có mục tiêu TNXH đảm bảo quyền hay cả lợi ích cho NLĐ. Hoạch định chiến lược hướng đến theo đuổi mục tiêu thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ là tất yếu và các DN này cần hoạch định chiến lược một cách bài bản, khoa học và hiệu quả. Bên cạnh đó, trong hoạch định chiến lược cần nâng cao khả năng nắm bắt thông tin, sự nhạy bén trong hoạch định chiến lược về sự thay đổi của các luật lệ quốc tế, các bộ quy tắc ứng xử, các chính sách về pháp luật lao động, chính sách của tiền lương trong TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ.
Đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Các DN may cần chủ động đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ:
Thứ nhất, nguồn lực tài chính của các DN may là hữu hạn vì thế cần căn cứ vào hoạch định chiến lược và mô hình TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ đã lựa chọn trên cơ sở đó xác định các khoản chi phí hiển thị cần chuẩn bị để thực hiện theo từng giai đoạn từ đó xác định ngân sách cần có cho hoạt động này. Đồng thời chỉ rõ nguồn tài chính cho các hoạt động.
Thứ hai, triển khai các chính sách, biện pháp phù hợp nâng cao hiệu quả huy động vốn, bổ sung vốn phù hợp với khả năng của DN. Trong điều kiện cạnh tranh, DN tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ, quỹ hỗ trợ DNNVV, quỹ hỗ trợ sắp xếp, phát triển DN với chính sách ưu tiên, ưu đãi như vay vốn kích cầu đầu tư hạ tầng cụm của các nhà đầu tư cũng như chính sách hỗ trợ tín dụng và khuyến khích sản phẩm mới, ưu đãi chi phí duy tu bảo dưỡng hạ tầng, chi phí thuê đất. Đây là những nguồn hỗ trợ, chính sách ưu đãi giúp các DN may sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, chú trọng đến quỹ lương, thưởng, phúc lợi. Đối với quỹ lương và hoàn thiện các hình thức trả lương bằng việc áp dụng phương pháp trả lương linh hoạt, phương pháp trả lương hỗn hợp- 3Ps (Position – Person – Performance). Ví dụ như trả lương 3P (xem hình 15 – phụ lục 9). Đây là sự kết hợp của các phương pháp trả lương, là cách thức tính lương cho NLĐ dựa vào các yếu tố quyết định như giá trị công việc, kỹ năng, kiến thức của NLĐ, kết quả thực hiện công việc, cụ thể như:
P1: Trả lương theo vị trí chức danh công việc. Mỗi công việc đều có dải lương từ Min – Max và các ngạch lương.
P2: Trả lương theo cá nhân thông qua đánh giá năng lực nhân viên. Tùy vào năng lực để xếp lương cho cá nhân (mức lương trong dải lương Min-Max).
P3: Trả lương theo hiệu quả, kết quả hoàn thành công việc. Dựa trên mục tiêu đã thiết lập cho từng cá nhân để đánh giá kết quả thực hiện.
Thứ tư, tuân thủ nghiêm chỉnh định kỳ báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả ngân sách thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ mặc dù việc được thực hiện linh hoạt, thích nghi với môi trường và hiệu quả nhưng các DN may cần phải chủ động hoạch định ngân sách cho hoạt động này.
Lựa chọn mô hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp may
Để có thể xây dựng và duy trì các chương trình, bộ tiêu chuẩn TNXH về lao động đòi hỏi DN cần phải có nguồn tài chính đủ lớn. Chính vì vậy, những DN điển hình trên thế giới cũng như trong nước về thực hiện TNXH đối với NLĐ phần lớn là các DN có quy mô lớn. Báo cáo chỉ số phát triển TNXH của Trung Quốc, (2015) đã cho thấy: “DN quy mô càng lớn thì chỉ số TNXH càng cao. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh của DN chỉ ảnh hưởng đến phạm vi và mức độ gánh vác TNXH của họ chứ không có hàm ý rằng các DN yếu về tài chính thì sẽ không quan tâm tới TNXH”. Vì thế, thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ phải được thực hiện cả ở DN lớn, DNNVV.
Đối với các DNNVV: Để ổn định, phát triển các DN luôn luôn cần đội ngũ lao động có tay nghề, có chất lượng. Vì vậy, để thu hút, duy trì đội ngũ này thì dù là DN vừa hay nhỏ thì thực hiện TNXH là một điều tất yếu. Bên cạnh đó sự phát triển của DN và xã hội có mối quan hệ tương hỗ, không thể tách rời. Thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ tạo quan hệ lao động êm ấm, ổn định. Mô hình mà các DNNVV có thể lựa chọn phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển từ giai đoạn hình thành đến giai đoạn tăng trưởng, ổn định để thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích trong HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi … với bộ máy, bộ phận tổ chức thực hiện linh hoạt, phù hợp.
Đối với các DN lớn: Các DN lớn đã có năng lực vị thế của mình trong kinh doanh, TMQT nên tạo ra giá trị bền vững chính là thực hiện sứ mệnh về TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Các DN này phải tiên phong trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và tăng cường hơn nữa đảm bảo lợi ích cho NLĐ. Đồng thời để thực hiện đạt chất lượng, DN phải tổ chức thực hiện một cách bài bản, hệ thống với tổ chức bộ máy thực hiện một cách chuyên nghiệp. Nhiều DN lớn ngoài việc có tổ chức bộ máy chuyên nghiệp với việc “mở rộng sự tham gia của NLĐ” trong tổ chức bộ máy thực hiện làm cho ranh giới giữa người làm chủ và người làm thuê được xích lại gần nhau hơn. Tại các DN lớn cách thực hiện này giúp cho việc triển khai thực hiện đạt kết quả cao hơn trong điều kiện hội nhập đa văn hóa.
Điều chỉnh nhân tố khách quan tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp may Việt Nam tăng cƣờng trách nhiệm xã hội đối với ngƣời lao động – đề xuất và kiến nghị
Các nhân tố khách quan hay chính là các điều kiện bên ngoài tác động đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của DN bằng sự hỗ trợ, tạo thuận lợi hoặc phản ứng để tạo dấu hiệu định hướng, chấn chỉnh hành vi của DN. DN không thể chủ động với các tác động từ các điều kiện bên ngoài. Để các DN may thực thi TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ có chất lượng thì các bên liên quan ngoài DN, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ban ngành, Hiệp hội dệt may Việt Nam cần tăng cường vai trò của mình cũng như mở rộng vòng tay, giúp sức cải thiện các điều kiện cho DN may nói riêng và các DN nói chung. Một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Đề xuất với các bên liên quan ngoài doanh nghiệp tăng sức ép để các doanh nghiệp may thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động một cách thực chất
Đối với khách hàng – bên liên quan quyền lực nhất định đoạt vận mệnh, sự thành bại của các DN may Việt Nam. Họ nên có những hành động quyết liệt để các DN thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ một cách đầy đủ, thường xuyên, đúng quy trình. Khách hàng phải yêu cầu DN thực hiện nghiêm chỉnh TNXH đảm bảo quyền của NLĐ trong các quy định pháp lý trong Bộ luật lao động về sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, về thời gian làm việc, ATVSLĐ. Đặc biệt là tăng cường TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ như: hỗ trợ nhà ở, chăm sóc sức khỏe nâng cao, trả lương cạnh tranh, trả phụ cấp, trợ cấp cao hơn quy định… Bên cạnh đó khách hàng quốc tế ngày nay sẽ còn yêu cầu cao hơn các CoC về lao động cũng như tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với DN. Vì vậy các DN may phải luôn trong tâm thế “sẵn sàng”, hợp tác với khách hàng huy động mọi nguồn lực để thực hiện các yêu cầu ở hiện tại và cả tương lai.
Đối với nhà cung ứng: Các nhà cung ứng phải cương quyết không cung cấp hàng đối với các DN may không thực hiện TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cũng như vi phạm quyền của NLĐ. Mặt khác, để cùng nhau phát triển nhà cung ứng cũng sẽ tạo điều kiện cung ứng hàng hóa đầy đủ, kịp thời, chất lượng tốt cho các DN may để DN thực hiện kinh doanh thuận lợi nhất. Các nhà cung ứng cũng cần tăng cường liên doanh, liên kết với các DN may. Liên doanh, liên kết theo chiều dọc, chiều ngang trong ngành công nghiệp dệt may. Đây không phải là vấn đề mới, song lại chưa được các nhà cung ứng cũng như DN may chú trọng trong thời qua. Sự kết nối, liên kết giữa các nhà cung ứng may và dệt trong nước còn rất yếu kém, vẫn tồn tại thực trạng “mạnh ai nấy làm”. Từ việc đầu tư dự án sản xuất nguyên phụ liệu cho đến công nghệ, máy móc của các DN may đều đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Do đó, các nhà cung ứng có thể liên kết với một DN khác nhằm tạo nguồn vốn cho dự án, làm tăng vốn mà lại không làm tăng thêm nợ, không phải chịu các khoản lãi cắt cổ. Liên kết làm tăng nguồn lực để nhận các đơn hàng lớn, giảm chi phí đầu vào, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm; Hoặc liên kết với các nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu như Trung Quốc, Ấn Độ cung cấp nguyên phụ liệu (xem hình 16- phụ lục 09). Tăng cường hợp tác giữa các nhà cung ứng với Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp Hội dệt may ASEAN để tăng cường năng lực cung ứng cho các DN may cụ thể: Tháng 3/2016 tại Bangkok Thái Lan, ASEAN đã ban hành hướng dẫn nội dung TNXH đối với NLĐ của DN để hỗ trợ các nhà cung ứng, các DN thực hiện tốt hoạt động này.
Đối với cộng đồng: Các DN may hiện nay có hoạt động xen kẽ trong các khu vực dân cư, cộng đồng. Cộng đồng là những người chịu ảnh hưởng bởi các DN may cũng như có khả năng giám sát và phát hiện các dấu hiệu bất ổn trong thực hiện TNXH đối với NLĐ như là không tuân thủ trách nhiệm đảm bảo quyền và lợi ích về HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi vi phạm đạo đức kinh doanh, đi ngược với mong muốn của cộng đồng, xã hội. Từ đó có những hành động quyết liệt buộc các DN thực hiện đúng hoạt động này. Các kênh truyền thông mà cộng đồng có thể lên tiếng, gây áp lực để DN phải thực hiện đúng thông qua: pano, khẩu hiệu, tờ rơi, đài, báo, Tivi, Internet. Cộng đồng sẽ tham gia vào công tác tuyên truyền, vận động các DN may thực hiện tốt TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ cũng như chủ trương của Đảng và Nhà nước trong Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội, Chiến lược phát triển bền vững, thực hiện tốt PLLĐ. Ngoài ra, DN cần hợp tác với mọi chủ thể đó có cả cộng đồng như trong nền kinh tế như theo quyết định số 145/QĐ/2016/QĐ-TTg Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội: “Huy động tối đa nguồn lực phục vụ xây dựng chiến khai có hiệu quả các chương trình phát triển về lao động – xã hội”. Như vậy cộng đồng có quyền và sức mạnh gây áp lực để các DN may thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ.
Kiến nghị với Nhà nước và các tổ chức liên quan tạo thiết chế thúc đẩy trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại các doanh nghiệp may Việt Nam
Chính phủ cần chú trọng hơn nữa phát triển kinh tế để phát huy cao độ nội lực, khẳng định vị thế của Việt Nam trong TMQT. Gắn kết phát triển kinh tế với đổi mới cơ cấu DN thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế để gia tăng tính quốc tế trong phát triển kinh tế. Đối với các DN may thúc đẩy phát triển cần phải duy trì sức mạnh các nguồn lực trong DN cũng như tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các DN phải đảm bảo, tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ trong làn sóng FDI, ODA để tăng cường chất lượng lao động trong phát triển kinh tế để có được những NLĐ có trình độ chuyên môn, lành nghề tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu với vị trí không còn là “lao động giá rẻ”, vượt lên trên mức đáy trong chuỗi này. Chủ động hội nhập kinh tế được ghi nhận trong Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 04/9/2018: “Tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trong đó hội nhập TMQT là trọng tâm”. Để chủ động hội nhập Chính phủ Việt Nam cần tạo điều kiện thông qua phê chuẩn Công ước 87, Công ước 105 để đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, theo quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội khẳng định: “đến năm 2020 phê chuẩn các công ước còn lại và một số công ước khác của ILO”. Thực hiện TNXH đối với NLĐ sẽ thực hiện tốt các công ước về tiêu chuẩn về lao động toàn cầu. Bên cạnh đó với các FTAs đã đàm phán cần tiến hành nhanh chóng các thủ tục, rà soát pháp lý để ký kết chính thức, trình cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời tiếp tục ký kết các FTAs: RCEP (ASEAN+6), Việt Nam – EFTA, Việt Nam – Israel… Việc ký kết các FTAs này mang lại nhiều “cơ hội hơn” cho các DN may như gia tăng xuất khẩu, thu hút vốn, tiếp cận và nâng cao chất lượng lao động chuẩn khu vực và thế giới. Nâng cao hiệu quả trong hội nhập kinh tế bằng cách tổ chức tốt các giai đoạn trong quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các FTA trong kế hoạch tổng thể với lộ trình
hợp lý. Do đó quy trình tham gia FTA gồm 3 bước (xem hình 17- phụ lục 9).
Giai đoạn 1- Nghiên cứu, đàm phán: Nghiên cứu sơ bộ các nội dung trong hiệp định đó để nhận diện, xác định mô hình để có tính chủ động. Trên cơ sở đó, chuẩn bị nhân lực tham gia đàm phán, là những người am hiểu hệ thống luật pháp và thực tiễn của đất nước, có khả năng phân tích cam kết trong hiệp định.
Giai đoạn 2- Đàm phán và chuẩn bị phê chuẩn: Tìm hiểu nội dung, cơ chế thực hiện, cơ chế giải quyết tranh chấp, chế tài xử phạt khi vi phạm các điều khoản.
Sau đó đánh giá sự thích hợp về mặt luật pháp và thực tiễn trong nước đối với các cam kết trong hiệp định và ra quyết định tham gia hay không tham gia hiệp định.
Giai đoạn 3- Phê chuẩn và thực hiện: Xây dựng lộ trình triển khai bao gồm việc chuẩn bị bộ máy thực thi và biện pháp phòng vệ, kế hoạch và triển khai điều chỉnh luật pháp, chính sách, thiết chế và các biện pháp hỗ trợ thực thi.
thiết chế thuận lợi cho các DN Nhà nước cần ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đối với NLĐ; Quốc hội cần bổ sung thêm bước phân tích tác động của chính sách, dự luật mới. Tham khảo quy trình ban hành luật của rất nhiều nước trên thế giới cho thấy công đoạn đầu tiên của quy trình ban hành pháp luật là phân tích chính sách gồm: nhận biết vấn đề đang phát sinh trong xã hội; tìm nguyên nhân của vấn đề; đề ra giải pháp; nghiên cứu các vướng mắc về tính hợp hiến, hợp pháp; đánh giá tác động của đạo luật dự kiến ban hành; nghiên cứu khả năng tài chính để bảo đảm triển khai các văn bản pháp luật”. Như vậy quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật gồm 7 bước (xem Hình 18- phụ lục 9) từ phân tích tác động của chính sách đến công bố luật, pháp lệnh.
Hoàn thiện nội dung pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ: Quốc hội hoàn thiện khung pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, tiến bộ và đảm bảo tính quốc tế để các DN thực thi như trong Bộ luật lao động:
Đối với HĐLĐ: Trong khoản 2 Điều 3: “NSDLĐ là DN, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.” NSDLĐ là một bên quan trọng trong HĐLĐ vì vậy cần có hướng dẫn cụ thể NSDLĐ; Khoản 2 Điều 22: “Khi HĐLĐ hết hạn mà NLĐ vẫn tiếp tục làm việc mà không ký kết HĐLĐ mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ xác định thời hạn 24 tháng”. Điều này phải quy định rõ thành HĐLĐ xác định thời hạn với thời gian 24 tháng; Điều 37: quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ phải gồm 2 điều kiện: 1 – Có lý do được quy định bởi luật; 2-Tuân thủ thời hạn báo trước. Riêng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì chỉ cần báo trước 45 ngày mà không cần lý do. Đề xuất bỏ lý do, để đảm bảo quyền được lựa chọn việc làm tốt hơn cho người lao động và phòng chống cưỡng bức lao động.
Đối với giờ làm việc: Tại điều 106 quy định: “Về số giờ làm thêm tối đa của NLĐ là không quá 30 giờ/tháng và 1 năm không quá 200 giờ, trường hợp đặc biệt không quá 300 giờ”. Đề xuất tăng số giờ làm thêm tối đa theo hướng quy định 1 ngày làm việc thì NLĐ làm việc bình thường, làm thêm giờ tối đa không quá 12 giờ/ngày và không được phép huy động NLĐ làm thêm giờ liên tục quá 5 ngày làm việc cho mỗi đợt làm thêm giờ. Bên cạnh đó, quy định của Bộ luật Lao động hiện hành đang khống chế số giờ làm thêm thấp hơn tiêu chuẩn các nhãn hàng/người mua hàng cũng đang gây khó khăn cho các DN may gia công hàng xuất khẩu. Vì thế Quốc hội xem xét mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ trong các trường hợp đặc biệt sẽ tăng thêm 100 giờ/năm so với hiện hành, từ tối đa 300 giờ/năm lên 400 giờ/năm để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động và tăng sự linh hoạt trong bố trí sản xuất kinh doanh của các DN may.
Đối với tiền lương và phúc lợi: Tại khoản 1 Điều 91: quy định, mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Đề xuất sửa đổi quy định mức lương tối thiểu theo hướng đảm bảo “mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ” và đề nghị bổ sung thêm các yếu tố xác định mức lương tối thiểu vùng; Điều 61: “Học nghề, tập nghề để làm việc cho NSDLĐ”. Theo đó, phải quy định rõ thời gian tối đa học nghề, học tập của NLĐ tại DN đề NLĐ sau thời gian đó được hưởng mức lương, phúc lợi người học.
Đối với ATVSLĐ: Luật ATVSLĐ cần đơn giản hóa các thủ tục để cấp giấy chứng nhận cho DN và quy định mức phạt từ 100 -200 triệu đồng để răn đe các DN vị phạm; Phạt từ 10-20 triệu đồng để NLĐ nâng cao ý thức thực hiện ATVSLĐ.
Để NSDLĐ và NLĐ không bị đẩy vào “chỗ khó” khi triển khai Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ. Nhà nước cần có những hướng dẫn cụ thể, hỗ trợ kịp thời khi các DN thực hiện các quy định về chính sách đặc thù đối với NLĐ nữ. Mức độ áp dụng tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi DN về: định kỳ gắn với khám chuyên khoa phụ sản hàng năm, chế độ thai sản, nghỉ mỗi ngày 30 phút trong thời gian hành kinh, 60 phút trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Nhà nước cần phải ưu tiên hỗ trợ các DN may với đa số là NLĐ nữ như: hỗ trợ phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; lắp đặt phòng vắt trữ sữa cho lao động nữ nuôi con nhỏ, xây dựng nhà trẻ. Đặc biệt phải có những chính sách hỗ trợ DN đối với NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ làm việc hiện nay tuổi đa cao, sức khỏe đã giảm sút. Đồng thời phải có chế tài xử phạt đủ mạnh, đủ sức răn đe nếu các DN đuổi NLĐ nữ một cách vô cớ.
Ngoài ra, thực hiện rà soát lại hệ thống pháp luật và chính sách có liên quan về TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Vì trong quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội đã nhận định: “Đến năm, 2030 đảm bảo nội luật hóa toàn bộ các cam kết về lao động quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu”. Tổ chức việc thực hiện pháp luật có liên quan đến TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ như: quy định trong Luật lao động, Luật việc làm, Luật an toàn vệ sinh lao động đặc biệt là Luật bình đẳng giới với mục đích để tạo động lực thực hiện TNXH đảm bảo quyền NLĐ tại các DN may.
Nhà nước phải phân trách nhiệm rõ ràng giữa Bộ Công thương chịu trách nhiệm; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và công nghệ và các ngành liên quan về TNXH đối với NLĐ của các DN một cách rõ ràng, tránh hiện tượng chồng chéo hay bỏ sót nhiệm vụ theo hướng hợp nhất các cơ quan quản lý nhà nước và quy định cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành liên quan. Ở mỗi ngành cụ thể như ngành dệt may cần phân định rạch ròi giữa chủ thể quản lý và đối tượng thực hiện theo chuỗi giá trị của các DN để đạt hiệu quả cao hơn. Tổ chức ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật liên quan đến TNXH đối đảm bảo quyền cho NLĐ của DN một cách cụ thể, tránh xâm lấn lên nhau.
Nhà nước cần hình thành kênh thông tin phản hồi để có thể tiếp nhận nhanh chóng những vấn đề vướng mắc trong Bộ luật, luật và các văn bản hướng dẫn để từ đó có thể đưa ra những hướng dẫn, giải pháp kịp thời. Nhà nước nên soạn thảo văn bản hướng dẫn dưới dạng cẩm nang hướng dẫn thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN.
Nhà nước cần có chính sách miễn thuế với những khu đất mà các DN may thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích trong các chương trình phúc lợi mở rộng như: xây nhà cho NLĐ xa nhà, xây nhà trẻ cho công em NLĐ, nhà văn hóa công nhân…. Bên cạnh đó, Bộ lao động Thương binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phối hợp với các ngân hàng thành lập “Quỹ hỗ trợ và thúc đẩy thực hiện TNXH đối với NLĐ” và sử dụng quỹ này một cách hợp lý. Quỹ này đặc biệt hỗ trợ cho NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ việc làm tại các DN may với tuổi đã cao, sức khỏe giảm sút, khó tìm việc làm mới, khó xây dựng gia đình… để đảm bảo tính thiết thực, tính bền vững của các chính sách về việc làm, Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ thì Nhà nước cần phân công rõ vai trò và huy động trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, DN và trách nhiệm của bản thân NLĐ để đây không còn là vấn đề “nhức nhối” của NLĐ nữ tại các DN may nói riêng và NLĐ nữ tại các khu công nghiệp nói chung.
Đẩy mạnh liên kết giữa Nhà nước với các tổ chức/hiệp hội trong và ngoài nước trong ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng (theo nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ). Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Public – Private Partner gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, DN. Hợp tác công – tư sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của các bên tham gia đóng góp cho sự phát triển ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng theo hướng phát triển bền vững (xem Hộp 9 – phụ lục 11).
Nhà nước bổ sung thêm vào nhiệm vụ thanh tra, chức năng giám sát, kiểm tra và tư vấn cho các DN trong việc thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ; Thiết lập cơ chế ba bên giữa Chính phủ, VGVL, VCCI. Trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng bên và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra.
Nhà nước cần thúc đẩy việc thành lập và trao quyền cho các cơ quan giám sát độc lập như ILO, IFC, MOLISA về thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Từ đó cơ quan này kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót của các DN, đồng thời có chế tài xử phạt nghiêm minh, có tính răn đe đối với các DN may vi phạm.
Để khuyến khích các DN may ứng dụng các CoC về lao động quốc tế thì Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng và VITAS nên đầu tư xây dựng một bộ CoC chung được hình thành trên cơ sở tích hợp các quy định của các CoC về lao động như: SA8000, WRAP… đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài, các quốc gia khác quy định buộc các DN may muốn xuất khẩu hàng hóa hoặc có quan hệ hợp tác với các nước phải tuân thủ. Thiết lập một hệ thống thông tin chuyên theo dõi, phân tích, cung cấp các yêu cầu về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của đối tác nước ngoài cho các DN may. Cùng với đó, VITAS và Bộ Khoa học công nghệ xây dựng bộ công cụ hướng dẫn, kiểm tra mức độ đạt các CoC về lao động qua Internet hay thiết bị di động như: ứng dụng phần mềm App trên thiết bị di động để DN tiếp cận, tra cứu thông tin về mức độ đạt CoC qua đó giúp DN tự khám “sức khỏe” khi nộp hồ sơ xin cấp đạt CoC đó.
Thúc đẩy các DN tiếp cận các CoC trong thực hiện đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cần có sự phối hợp giữa MOLISA, VGVL, VCCI phối hợp để hỗ trợ kỹ thuật để xây dựng các mô hình mẫu về các DN thực hiện tốt TNXH đối với NLĐ về các CoC: SA8000, WRAP. Biểu dương các DN đạt được lợi nhuận cao từ thực hiện TNXH đối với NLĐ để các DN may học tập. Bên cạnh đó, Bộ giáo dục và các Trường Đại học, Cao đẳng cần phải đào tạo về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ trong các khối ngành quản trị kinh doanh, quản lý lao động. Thiết lập các chương trình đào tạo về việc tính toán lợi ích và lợi nhuận mà các DN sẽ đạt được khi thực hiện CoC SA8000, WRAP, OHSAS 18001.
Để tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN may thì VITAS đẩy mạnh các hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ các DN may trong ngành hội thảo, hội nghị, tư vấn, đào tạo để các DN may cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, vượt qua những khó khăn trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Tổ chức các cuộc thi, phát động phong trào về thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ, phong trào xây dựng và áp dụng các hệ thống SA8000, WRAP… để các DN may đã vận hành thành công các CoC đó có cơ hội quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho xã hội. Từ đó tạo diễn đàn trao đổi học hỏi giữa các DN trong ngành. VITAS cũng nên thống nhất xây dựng các quy chuẩn chung về các vấn đề liên quan đến TNXH đảm bảo quyền và lợi ích để các DN may trong ngành có thể thuận tiện sử dụng và đánh giá, giám định của các đối tác.
VITAS phối hợp với VGVL, Liên đoàn Dệt May các nước Đông Nam Á ban hành Bộ tài liệu hướng dẫn kỹ năng nghề, kỹ năng đào tạo nghiệp vụ may cho các DN. Bên cạnh đó, trong thời gian tới Hiệp hội cần xây bộ tiêu chuẩn nghề may quốc gia đồng thời VITAS cần tạo ra sự phối kết hợp giữa cơ sở đào tạo với các DN may để nâng cao chất lượng lao động cũng như đáp ứng nhu cầu học hỏi, đổi mới của NLĐ; Các Trung tâm Giới thiệu việc làm chính là “cầu nối” giữa NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy cần phát huy hơn nữa vai trò hiệu quả của sàn giao dịch việc làm của các thành phố trung tâm như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các địa phương lân cận bảo đảm hiệu quả thông tin cung – cầu lao động may mặc được cập nhật chính xác, thường xuyên, kịp thời, tạo kết nối; Bộ thông tin và truyền thông cũng như các cơ quan thông tin đại chúng nên có chương trình và dành thời lượng thích đáng cho tuyên truyền, khuyếch trương những DN thành công trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ.
VGVL cần đổi mới toàn diện, mạnh mẽ để tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo, chỉ đường, dẫn dắt NLĐ trong bối cảnh Việt nam đang thực hiện cam kết quốc tế về lao động trong các FTA tự do thế hệ mới và các Công ước của ILO (đặc biệt công ước 98 về thương lượng tập thể mới ký kết 7/2019) cũng như thực hiện TNXH bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, để thu hút sự tham gia và tin tưởng của NLĐ.
Đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Các DN may cần chủ động đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ:
Thứ nhất, nguồn lực tài chính của các DN may là hữu hạn vì thế cần căn cứ vào hoạch định chiến lược và mô hình TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ đã lựa chọn trên cơ sở đó xác định các khoản chi phí hiển thị cần chuẩn bị để thực hiện theo từng giai đoạn từ đó xác định ngân sách cần có cho hoạt động này. Đồng thời chỉ rõ nguồn tài chính cho các hoạt động.
Thứ hai, triển khai các chính sách, biện pháp phù hợp nâng cao hiệu quả huy động vốn, bổ sung vốn phù hợp với khả năng của DN. Trong điều kiện cạnh tranh, DN tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ, quỹ hỗ trợ DNNVV, quỹ hỗ trợ sắp xếp, phát triển DN với chính sách ưu tiên, ưu đãi như vay vốn kích cầu đầu tư hạ tầng cụm của các nhà đầu tư cũng như chính sách hỗ trợ tín dụng và khuyến khích sản phẩm mới, ưu đãi chi phí duy tu bảo dưỡng hạ tầng, chi phí thuê đất. Đây là những nguồn hỗ trợ, chính sách ưu đãi giúp các DN may sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, chú trọng đến quỹ lương, thưởng, phúc lợi. Đối với quỹ lương và hoàn thiện các hình thức trả lương bằng việc áp dụng phương pháp trả lương linh hoạt, phương pháp trả lương hỗn hợp- 3Ps (Position – Person – Performance). Ví dụ như trả lương 3P (xem hình 15 – phụ lục 9). Đây là sự kết hợp của các phương pháp trả lương, là cách thức tính lương cho NLĐ dựa vào các yếu tố quyết định như giá trị công việc, kỹ năng, kiến thức của NLĐ, kết quả thực hiện công việc, cụ thể như:
P1: Trả lương theo vị trí chức danh công việc. Mỗi công việc đều có dải lương từ Min – Max và các ngạch lương.
P2: Trả lương theo cá nhân thông qua đánh giá năng lực nhân viên. Tùy vào năng lực để xếp lương cho cá nhân (mức lương trong dải lương Min-Max).
P3: Trả lương theo hiệu quả, kết quả hoàn thành công việc. Dựa trên mục tiêu đã thiết lập cho từng cá nhân để đánh giá kết quả thực hiện.
Thứ tư, tuân thủ nghiêm chỉnh định kỳ báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả ngân sách thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ mặc dù việc được thực hiện linh hoạt, thích nghi với môi trường và hiệu quả nhưng các DN may cần phải chủ động hoạch định ngân sách cho hoạt động này.
Lựa chọn mô hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp may
Để có thể xây dựng và duy trì các chương trình, bộ tiêu chuẩn TNXH về lao động đòi hỏi DN cần phải có nguồn tài chính đủ lớn. Chính vì vậy, những DN điển hình trên thế giới cũng như trong nước về thực hiện TNXH đối với NLĐ phần lớn là các DN có quy mô lớn. Báo cáo chỉ số phát triển TNXH của Trung Quốc, (2015) đã cho thấy: “DN quy mô càng lớn thì chỉ số TNXH càng cao. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh của DN chỉ ảnh hưởng đến phạm vi và mức độ gánh vác TNXH của họ chứ không có hàm ý rằng các DN yếu về tài chính thì sẽ không quan tâm tới TNXH”. Vì thế, thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ phải được thực hiện cả ở DN lớn, DNNVV.
Đối với các DNNVV: Để ổn định, phát triển các DN luôn luôn cần đội ngũ lao động có tay nghề, có chất lượng. Vì vậy, để thu hút, duy trì đội ngũ này thì dù là DN vừa hay nhỏ thì thực hiện TNXH là một điều tất yếu. Bên cạnh đó sự phát triển của DN và xã hội có mối quan hệ tương hỗ, không thể tách rời. Thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ tạo quan hệ lao động êm ấm, ổn định. Mô hình mà các DNNVV có thể lựa chọn phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển từ giai đoạn hình thành đến giai đoạn tăng trưởng, ổn định để thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích trong HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi … với bộ máy, bộ phận tổ chức thực hiện linh hoạt, phù hợp.
Đối với các DN lớn: Các DN lớn đã có năng lực vị thế của mình trong kinh doanh, TMQT nên tạo ra giá trị bền vững chính là thực hiện sứ mệnh về TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Các DN này phải tiên phong trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và tăng cường hơn nữa đảm bảo lợi ích cho NLĐ. Đồng thời để thực hiện đạt chất lượng, DN phải tổ chức thực hiện một cách bài bản, hệ thống với tổ chức bộ máy thực hiện một cách chuyên nghiệp. Nhiều DN lớn ngoài việc có tổ chức bộ máy chuyên nghiệp với việc “mở rộng sự tham gia của NLĐ” trong tổ chức bộ máy thực hiện làm cho ranh giới giữa người làm chủ và người làm thuê được xích lại gần nhau hơn. Tại các DN lớn cách thực hiện này giúp cho việc triển khai thực hiện đạt kết quả cao hơn trong điều kiện hội nhập đa văn hóa.
Điều chỉnh nhân tố khách quan tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp may Việt Nam tăng cƣờng trách nhiệm xã hội đối với ngƣời lao động – đề xuất và kiến nghị
Các nhân tố khách quan hay chính là các điều kiện bên ngoài tác động đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của DN bằng sự hỗ trợ, tạo thuận lợi hoặc phản ứng để tạo dấu hiệu định hướng, chấn chỉnh hành vi của DN. DN không thể chủ động với các tác động từ các điều kiện bên ngoài. Để các DN may thực thi TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ có chất lượng thì các bên liên quan ngoài DN, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ban ngành, Hiệp hội dệt may Việt Nam cần tăng cường vai trò của mình cũng như mở rộng vòng tay, giúp sức cải thiện các điều kiện cho DN may nói riêng và các DN nói chung. Một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Đề xuất với các bên liên quan ngoài doanh nghiệp tăng sức ép để các doanh nghiệp may thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động một cách thực chất
Đối với khách hàng – bên liên quan quyền lực nhất định đoạt vận mệnh, sự thành bại của các DN may Việt Nam. Họ nên có những hành động quyết liệt để các DN thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ một cách đầy đủ, thường xuyên, đúng quy trình. Khách hàng phải yêu cầu DN thực hiện nghiêm chỉnh TNXH đảm bảo quyền của NLĐ trong các quy định pháp lý trong Bộ luật lao động về sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, về thời gian làm việc, ATVSLĐ. Đặc biệt là tăng cường TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ như: hỗ trợ nhà ở, chăm sóc sức khỏe nâng cao, trả lương cạnh tranh, trả phụ cấp, trợ cấp cao hơn quy định… Bên cạnh đó khách hàng quốc tế ngày nay sẽ còn yêu cầu cao hơn các CoC về lao động cũng như tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với DN. Vì vậy các DN may phải luôn trong tâm thế “sẵn sàng”, hợp tác với khách hàng huy động mọi nguồn lực để thực hiện các yêu cầu ở hiện tại và cả tương lai.
Đối với nhà cung ứng: Các nhà cung ứng phải cương quyết không cung cấp hàng đối với các DN may không thực hiện TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cũng như vi phạm quyền của NLĐ. Mặt khác, để cùng nhau phát triển nhà cung ứng cũng sẽ tạo điều kiện cung ứng hàng hóa đầy đủ, kịp thời, chất lượng tốt cho các DN may để DN thực hiện kinh doanh thuận lợi nhất. Các nhà cung ứng cũng cần tăng cường liên doanh, liên kết với các DN may. Liên doanh, liên kết theo chiều dọc, chiều ngang trong ngành công nghiệp dệt may. Đây không phải là vấn đề mới, song lại chưa được các nhà cung ứng cũng như DN may chú trọng trong thời qua. Sự kết nối, liên kết giữa các nhà cung ứng may và dệt trong nước còn rất yếu kém, vẫn tồn tại thực trạng “mạnh ai nấy làm”. Từ việc đầu tư dự án sản xuất nguyên phụ liệu cho đến công nghệ, máy móc của các DN may đều đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Do đó, các nhà cung ứng có thể liên kết với một DN khác nhằm tạo nguồn vốn cho dự án, làm tăng vốn mà lại không làm tăng thêm nợ, không phải chịu các khoản lãi cắt cổ. Liên kết làm tăng nguồn lực để nhận các đơn hàng lớn, giảm chi phí đầu vào, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm; Hoặc liên kết với các nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu như Trung Quốc, Ấn Độ cung cấp nguyên phụ liệu (xem hình 16- phụ lục 09). Tăng cường hợp tác giữa các nhà cung ứng với Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp Hội dệt may ASEAN để tăng cường năng lực cung ứng cho các DN may cụ thể: Tháng 3/2016 tại Bangkok Thái Lan, ASEAN đã ban hành hướng dẫn nội dung TNXH đối với NLĐ của DN để hỗ trợ các nhà cung ứng, các DN thực hiện tốt hoạt động này.
Đối với cộng đồng: Các DN may hiện nay có hoạt động xen kẽ trong các khu vực dân cư, cộng đồng. Cộng đồng là những người chịu ảnh hưởng bởi các DN may cũng như có khả năng giám sát và phát hiện các dấu hiệu bất ổn trong thực hiện TNXH đối với NLĐ như là không tuân thủ trách nhiệm đảm bảo quyền và lợi ích về HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi vi phạm đạo đức kinh doanh, đi ngược với mong muốn của cộng đồng, xã hội. Từ đó có những hành động quyết liệt buộc các DN thực hiện đúng hoạt động này. Các kênh truyền thông mà cộng đồng có thể lên tiếng, gây áp lực để DN phải thực hiện đúng thông qua: pano, khẩu hiệu, tờ rơi, đài, báo, Tivi, Internet. Cộng đồng sẽ tham gia vào công tác tuyên truyền, vận động các DN may thực hiện tốt TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ cũng như chủ trương của Đảng và Nhà nước trong Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội, Chiến lược phát triển bền vững, thực hiện tốt PLLĐ. Ngoài ra, DN cần hợp tác với mọi chủ thể đó có cả cộng đồng như trong nền kinh tế như theo quyết định số 145/QĐ/2016/QĐ-TTg Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội: “Huy động tối đa nguồn lực phục vụ xây dựng chiến khai có hiệu quả các chương trình phát triển về lao động – xã hội”. Như vậy cộng đồng có quyền và sức mạnh gây áp lực để các DN may thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ.
Kiến nghị với Nhà nước và các tổ chức liên quan tạo thiết chế thúc đẩy trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại các doanh nghiệp may Việt Nam
Chính phủ cần chú trọng hơn nữa phát triển kinh tế để phát huy cao độ nội lực, khẳng định vị thế của Việt Nam trong TMQT. Gắn kết phát triển kinh tế với đổi mới cơ cấu DN thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế để gia tăng tính quốc tế trong phát triển kinh tế. Đối với các DN may thúc đẩy phát triển cần phải duy trì sức mạnh các nguồn lực trong DN cũng như tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các DN phải đảm bảo, tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ trong làn sóng FDI, ODA để tăng cường chất lượng lao động trong phát triển kinh tế để có được những NLĐ có trình độ chuyên môn, lành nghề tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu với vị trí không còn là “lao động giá rẻ”, vượt lên trên mức đáy trong chuỗi này. Chủ động hội nhập kinh tế được ghi nhận trong Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 04/9/2018: “Tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trong đó hội nhập TMQT là trọng tâm”. Để chủ động hội nhập Chính phủ Việt Nam cần tạo điều kiện thông qua phê chuẩn Công ước 87, Công ước 105 để đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, theo quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội khẳng định: “đến năm 2020 phê chuẩn các công ước còn lại và một số công ước khác của ILO”. Thực hiện TNXH đối với NLĐ sẽ thực hiện tốt các công ước về tiêu chuẩn về lao động toàn cầu. Bên cạnh đó với các FTAs đã đàm phán cần tiến hành nhanh chóng các thủ tục, rà soát pháp lý để ký kết chính thức, trình cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời tiếp tục ký kết các FTAs: RCEP (ASEAN+6), Việt Nam – EFTA, Việt Nam – Israel… Việc ký kết các FTAs này mang lại nhiều “cơ hội hơn” cho các DN may như gia tăng xuất khẩu, thu hút vốn, tiếp cận và nâng cao chất lượng lao động chuẩn khu vực và thế giới. Nâng cao hiệu quả trong hội nhập kinh tế bằng cách tổ chức tốt các giai đoạn trong quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các FTA trong kế hoạch tổng thể với lộ trình
hợp lý. Do đó quy trình tham gia FTA gồm 3 bước (xem hình 17- phụ lục 9).
Giai đoạn 1- Nghiên cứu, đàm phán: Nghiên cứu sơ bộ các nội dung trong hiệp định đó để nhận diện, xác định mô hình để có tính chủ động. Trên cơ sở đó, chuẩn bị nhân lực tham gia đàm phán, là những người am hiểu hệ thống luật pháp và thực tiễn của đất nước, có khả năng phân tích cam kết trong hiệp định.
Giai đoạn 2- Đàm phán và chuẩn bị phê chuẩn: Tìm hiểu nội dung, cơ chế thực hiện, cơ chế giải quyết tranh chấp, chế tài xử phạt khi vi phạm các điều khoản.
Sau đó đánh giá sự thích hợp về mặt luật pháp và thực tiễn trong nước đối với các cam kết trong hiệp định và ra quyết định tham gia hay không tham gia hiệp định.
Giai đoạn 3- Phê chuẩn và thực hiện: Xây dựng lộ trình triển khai bao gồm việc chuẩn bị bộ máy thực thi và biện pháp phòng vệ, kế hoạch và triển khai điều chỉnh luật pháp, chính sách, thiết chế và các biện pháp hỗ trợ thực thi.
thiết chế thuận lợi cho các DN Nhà nước cần ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đối với NLĐ; Quốc hội cần bổ sung thêm bước phân tích tác động của chính sách, dự luật mới. Tham khảo quy trình ban hành luật của rất nhiều nước trên thế giới cho thấy công đoạn đầu tiên của quy trình ban hành pháp luật là phân tích chính sách gồm: nhận biết vấn đề đang phát sinh trong xã hội; tìm nguyên nhân của vấn đề; đề ra giải pháp; nghiên cứu các vướng mắc về tính hợp hiến, hợp pháp; đánh giá tác động của đạo luật dự kiến ban hành; nghiên cứu khả năng tài chính để bảo đảm triển khai các văn bản pháp luật”. Như vậy quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật gồm 7 bước (xem Hình 18- phụ lục 9) từ phân tích tác động của chính sách đến công bố luật, pháp lệnh.
Hoàn thiện nội dung pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ: Quốc hội hoàn thiện khung pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, tiến bộ và đảm bảo tính quốc tế để các DN thực thi như trong Bộ luật lao động:
Đối với HĐLĐ: Trong khoản 2 Điều 3: “NSDLĐ là DN, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.” NSDLĐ là một bên quan trọng trong HĐLĐ vì vậy cần có hướng dẫn cụ thể NSDLĐ; Khoản 2 Điều 22: “Khi HĐLĐ hết hạn mà NLĐ vẫn tiếp tục làm việc mà không ký kết HĐLĐ mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ xác định thời hạn 24 tháng”. Điều này phải quy định rõ thành HĐLĐ xác định thời hạn với thời gian 24 tháng; Điều 37: quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ phải gồm 2 điều kiện: 1 – Có lý do được quy định bởi luật; 2-Tuân thủ thời hạn báo trước. Riêng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì chỉ cần báo trước 45 ngày mà không cần lý do. Đề xuất bỏ lý do, để đảm bảo quyền được lựa chọn việc làm tốt hơn cho người lao động và phòng chống cưỡng bức lao động.
Đối với giờ làm việc: Tại điều 106 quy định: “Về số giờ làm thêm tối đa của NLĐ là không quá 30 giờ/tháng và 1 năm không quá 200 giờ, trường hợp đặc biệt không quá 300 giờ”. Đề xuất tăng số giờ làm thêm tối đa theo hướng quy định 1 ngày làm việc thì NLĐ làm việc bình thường, làm thêm giờ tối đa không quá 12 giờ/ngày và không được phép huy động NLĐ làm thêm giờ liên tục quá 5 ngày làm việc cho mỗi đợt làm thêm giờ. Bên cạnh đó, quy định của Bộ luật Lao động hiện hành đang khống chế số giờ làm thêm thấp hơn tiêu chuẩn các nhãn hàng/người mua hàng cũng đang gây khó khăn cho các DN may gia công hàng xuất khẩu. Vì thế Quốc hội xem xét mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ trong các trường hợp đặc biệt sẽ tăng thêm 100 giờ/năm so với hiện hành, từ tối đa 300 giờ/năm lên 400 giờ/năm để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động và tăng sự linh hoạt trong bố trí sản xuất kinh doanh của các DN may.
Đối với tiền lương và phúc lợi: Tại khoản 1 Điều 91: quy định, mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Đề xuất sửa đổi quy định mức lương tối thiểu theo hướng đảm bảo “mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ” và đề nghị bổ sung thêm các yếu tố xác định mức lương tối thiểu vùng; Điều 61: “Học nghề, tập nghề để làm việc cho NSDLĐ”. Theo đó, phải quy định rõ thời gian tối đa học nghề, học tập của NLĐ tại DN đề NLĐ sau thời gian đó được hưởng mức lương, phúc lợi người học.
Đối với ATVSLĐ: Luật ATVSLĐ cần đơn giản hóa các thủ tục để cấp giấy chứng nhận cho DN và quy định mức phạt từ 100 -200 triệu đồng để răn đe các DN vị phạm; Phạt từ 10-20 triệu đồng để NLĐ nâng cao ý thức thực hiện ATVSLĐ.
Để NSDLĐ và NLĐ không bị đẩy vào “chỗ khó” khi triển khai Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ. Nhà nước cần có những hướng dẫn cụ thể, hỗ trợ kịp thời khi các DN thực hiện các quy định về chính sách đặc thù đối với NLĐ nữ. Mức độ áp dụng tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi DN về: định kỳ gắn với khám chuyên khoa phụ sản hàng năm, chế độ thai sản, nghỉ mỗi ngày 30 phút trong thời gian hành kinh, 60 phút trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Nhà nước cần phải ưu tiên hỗ trợ các DN may với đa số là NLĐ nữ như: hỗ trợ phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; lắp đặt phòng vắt trữ sữa cho lao động nữ nuôi con nhỏ, xây dựng nhà trẻ. Đặc biệt phải có những chính sách hỗ trợ DN đối với NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ làm việc hiện nay tuổi đa cao, sức khỏe đã giảm sút. Đồng thời phải có chế tài xử phạt đủ mạnh, đủ sức răn đe nếu các DN đuổi NLĐ nữ một cách vô cớ.
Ngoài ra, thực hiện rà soát lại hệ thống pháp luật và chính sách có liên quan về TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Vì trong quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội đã nhận định: “Đến năm, 2030 đảm bảo nội luật hóa toàn bộ các cam kết về lao động quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu”. Tổ chức việc thực hiện pháp luật có liên quan đến TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ như: quy định trong Luật lao động, Luật việc làm, Luật an toàn vệ sinh lao động đặc biệt là Luật bình đẳng giới với mục đích để tạo động lực thực hiện TNXH đảm bảo quyền NLĐ tại các DN may.
Nhà nước phải phân trách nhiệm rõ ràng giữa Bộ Công thương chịu trách nhiệm; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và công nghệ và các ngành liên quan về TNXH đối với NLĐ của các DN một cách rõ ràng, tránh hiện tượng chồng chéo hay bỏ sót nhiệm vụ theo hướng hợp nhất các cơ quan quản lý nhà nước và quy định cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành liên quan. Ở mỗi ngành cụ thể như ngành dệt may cần phân định rạch ròi giữa chủ thể quản lý và đối tượng thực hiện theo chuỗi giá trị của các DN để đạt hiệu quả cao hơn. Tổ chức ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật liên quan đến TNXH đối đảm bảo quyền cho NLĐ của DN một cách cụ thể, tránh xâm lấn lên nhau.
Nhà nước cần hình thành kênh thông tin phản hồi để có thể tiếp nhận nhanh chóng những vấn đề vướng mắc trong Bộ luật, luật và các văn bản hướng dẫn để từ đó có thể đưa ra những hướng dẫn, giải pháp kịp thời. Nhà nước nên soạn thảo văn bản hướng dẫn dưới dạng cẩm nang hướng dẫn thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN.
Nhà nước cần có chính sách miễn thuế với những khu đất mà các DN may thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích trong các chương trình phúc lợi mở rộng như: xây nhà cho NLĐ xa nhà, xây nhà trẻ cho công em NLĐ, nhà văn hóa công nhân…. Bên cạnh đó, Bộ lao động Thương binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phối hợp với các ngân hàng thành lập “Quỹ hỗ trợ và thúc đẩy thực hiện TNXH đối với NLĐ” và sử dụng quỹ này một cách hợp lý. Quỹ này đặc biệt hỗ trợ cho NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ việc làm tại các DN may với tuổi đã cao, sức khỏe giảm sút, khó tìm việc làm mới, khó xây dựng gia đình… để đảm bảo tính thiết thực, tính bền vững của các chính sách về việc làm, Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ thì Nhà nước cần phân công rõ vai trò và huy động trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, DN và trách nhiệm của bản thân NLĐ để đây không còn là vấn đề “nhức nhối” của NLĐ nữ tại các DN may nói riêng và NLĐ nữ tại các khu công nghiệp nói chung.
Đẩy mạnh liên kết giữa Nhà nước với các tổ chức/hiệp hội trong và ngoài nước trong ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng (theo nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ). Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Public – Private Partner gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, DN. Hợp tác công – tư sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của các bên tham gia đóng góp cho sự phát triển ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng theo hướng phát triển bền vững (xem Hộp 9 – phụ lục 11).
Nhà nước bổ sung thêm vào nhiệm vụ thanh tra, chức năng giám sát, kiểm tra và tư vấn cho các DN trong việc thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ; Thiết lập cơ chế ba bên giữa Chính phủ, VGVL, VCCI. Trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng bên và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra.
Nhà nước cần thúc đẩy việc thành lập và trao quyền cho các cơ quan giám sát độc lập như ILO, IFC, MOLISA về thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Từ đó cơ quan này kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót của các DN, đồng thời có chế tài xử phạt nghiêm minh, có tính răn đe đối với các DN may vi phạm.
Để khuyến khích các DN may ứng dụng các CoC về lao động quốc tế thì Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng và VITAS nên đầu tư xây dựng một bộ CoC chung được hình thành trên cơ sở tích hợp các quy định của các CoC về lao động như: SA8000, WRAP… đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài, các quốc gia khác quy định buộc các DN may muốn xuất khẩu hàng hóa hoặc có quan hệ hợp tác với các nước phải tuân thủ. Thiết lập một hệ thống thông tin chuyên theo dõi, phân tích, cung cấp các yêu cầu về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của đối tác nước ngoài cho các DN may. Cùng với đó, VITAS và Bộ Khoa học công nghệ xây dựng bộ công cụ hướng dẫn, kiểm tra mức độ đạt các CoC về lao động qua Internet hay thiết bị di động như: ứng dụng phần mềm App trên thiết bị di động để DN tiếp cận, tra cứu thông tin về mức độ đạt CoC qua đó giúp DN tự khám “sức khỏe” khi nộp hồ sơ xin cấp đạt CoC đó.
Thúc đẩy các DN tiếp cận các CoC trong thực hiện đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cần có sự phối hợp giữa MOLISA, VGVL, VCCI phối hợp để hỗ trợ kỹ thuật để xây dựng các mô hình mẫu về các DN thực hiện tốt TNXH đối với NLĐ về các CoC: SA8000, WRAP. Biểu dương các DN đạt được lợi nhuận cao từ thực hiện TNXH đối với NLĐ để các DN may học tập. Bên cạnh đó, Bộ giáo dục và các Trường Đại học, Cao đẳng cần phải đào tạo về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ trong các khối ngành quản trị kinh doanh, quản lý lao động. Thiết lập các chương trình đào tạo về việc tính toán lợi ích và lợi nhuận mà các DN sẽ đạt được khi thực hiện CoC SA8000, WRAP, OHSAS 18001.
Để tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN may thì VITAS đẩy mạnh các hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ các DN may trong ngành hội thảo, hội nghị, tư vấn, đào tạo để các DN may cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, vượt qua những khó khăn trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Tổ chức các cuộc thi, phát động phong trào về thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ, phong trào xây dựng và áp dụng các hệ thống SA8000, WRAP… để các DN may đã vận hành thành công các CoC đó có cơ hội quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho xã hội. Từ đó tạo diễn đàn trao đổi học hỏi giữa các DN trong ngành. VITAS cũng nên thống nhất xây dựng các quy chuẩn chung về các vấn đề liên quan đến TNXH đảm bảo quyền và lợi ích để các DN may trong ngành có thể thuận tiện sử dụng và đánh giá, giám định của các đối tác.
VITAS phối hợp với VGVL, Liên đoàn Dệt May các nước Đông Nam Á ban hành Bộ tài liệu hướng dẫn kỹ năng nghề, kỹ năng đào tạo nghiệp vụ may cho các DN. Bên cạnh đó, trong thời gian tới Hiệp hội cần xây bộ tiêu chuẩn nghề may quốc gia đồng thời VITAS cần tạo ra sự phối kết hợp giữa cơ sở đào tạo với các DN may để nâng cao chất lượng lao động cũng như đáp ứng nhu cầu học hỏi, đổi mới của NLĐ; Các Trung tâm Giới thiệu việc làm chính là “cầu nối” giữa NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy cần phát huy hơn nữa vai trò hiệu quả của sàn giao dịch việc làm của các thành phố trung tâm như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các địa phương lân cận bảo đảm hiệu quả thông tin cung – cầu lao động may mặc được cập nhật chính xác, thường xuyên, kịp thời, tạo kết nối; Bộ thông tin và truyền thông cũng như các cơ quan thông tin đại chúng nên có chương trình và dành thời lượng thích đáng cho tuyên truyền, khuyếch trương những DN thành công trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ.
VGVL cần đổi mới toàn diện, mạnh mẽ để tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo, chỉ đường, dẫn dắt NLĐ trong bối cảnh Việt nam đang thực hiện cam kết quốc tế về lao động trong các FTA tự do thế hệ mới và các Công ước của ILO (đặc biệt công ước 98 về thương lượng tập thể mới ký kết 7/2019) cũng như thực hiện TNXH bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, để thu hút sự tham gia và tin tưởng của NLĐ.
Đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Các DN may cần chủ động đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ:
Thứ nhất, nguồn lực tài chính của các DN may là hữu hạn vì thế cần căn cứ vào hoạch định chiến lược và mô hình TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ đã lựa chọn trên cơ sở đó xác định các khoản chi phí hiển thị cần chuẩn bị để thực hiện theo từng giai đoạn từ đó xác định ngân sách cần có cho hoạt động này. Đồng thời chỉ rõ nguồn tài chính cho các hoạt động.
Thứ hai, triển khai các chính sách, biện pháp phù hợp nâng cao hiệu quả huy động vốn, bổ sung vốn phù hợp với khả năng của DN. Trong điều kiện cạnh tranh, DN tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ, quỹ hỗ trợ DNNVV, quỹ hỗ trợ sắp xếp, phát triển DN với chính sách ưu tiên, ưu đãi như vay vốn kích cầu đầu tư hạ tầng cụm của các nhà đầu tư cũng như chính sách hỗ trợ tín dụng và khuyến khích sản phẩm mới, ưu đãi chi phí duy tu bảo dưỡng hạ tầng, chi phí thuê đất. Đây là những nguồn hỗ trợ, chính sách ưu đãi giúp các DN may sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, chú trọng đến quỹ lương, thưởng, phúc lợi. Đối với quỹ lương và hoàn thiện các hình thức trả lương bằng việc áp dụng phương pháp trả lương linh hoạt, phương pháp trả lương hỗn hợp- 3Ps (Position – Person – Performance). Ví dụ như trả lương 3P (xem hình 15 – phụ lục 9). Đây là sự kết hợp của các phương pháp trả lương, là cách thức tính lương cho NLĐ dựa vào các yếu tố quyết định như giá trị công việc, kỹ năng, kiến thức của NLĐ, kết quả thực hiện công việc, cụ thể như:
P1: Trả lương theo vị trí chức danh công việc. Mỗi công việc đều có dải lương từ Min – Max và các ngạch lương.
P2: Trả lương theo cá nhân thông qua đánh giá năng lực nhân viên. Tùy vào năng lực để xếp lương cho cá nhân (mức lương trong dải lương Min-Max).
P3: Trả lương theo hiệu quả, kết quả hoàn thành công việc. Dựa trên mục tiêu đã thiết lập cho từng cá nhân để đánh giá kết quả thực hiện.
Thứ tư, tuân thủ nghiêm chỉnh định kỳ báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả ngân sách thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ mặc dù việc được thực hiện linh hoạt, thích nghi với môi trường và hiệu quả nhưng các DN may cần phải chủ động hoạch định ngân sách cho hoạt động này.
Lựa chọn mô hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp may
Để có thể xây dựng và duy trì các chương trình, bộ tiêu chuẩn TNXH về lao động đòi hỏi DN cần phải có nguồn tài chính đủ lớn. Chính vì vậy, những DN điển hình trên thế giới cũng như trong nước về thực hiện TNXH đối với NLĐ phần lớn là các DN có quy mô lớn. Báo cáo chỉ số phát triển TNXH của Trung Quốc, (2015) đã cho thấy: “DN quy mô càng lớn thì chỉ số TNXH càng cao. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh của DN chỉ ảnh hưởng đến phạm vi và mức độ gánh vác TNXH của họ chứ không có hàm ý rằng các DN yếu về tài chính thì sẽ không quan tâm tới TNXH”. Vì thế, thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ phải được thực hiện cả ở DN lớn, DNNVV.
Đối với các DNNVV: Để ổn định, phát triển các DN luôn luôn cần đội ngũ lao động có tay nghề, có chất lượng. Vì vậy, để thu hút, duy trì đội ngũ này thì dù là DN vừa hay nhỏ thì thực hiện TNXH là một điều tất yếu. Bên cạnh đó sự phát triển của DN và xã hội có mối quan hệ tương hỗ, không thể tách rời. Thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ tạo quan hệ lao động êm ấm, ổn định. Mô hình mà các DNNVV có thể lựa chọn phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển từ giai đoạn hình thành đến giai đoạn tăng trưởng, ổn định để thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích trong HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi … với bộ máy, bộ phận tổ chức thực hiện linh hoạt, phù hợp.
Đối với các DN lớn: Các DN lớn đã có năng lực vị thế của mình trong kinh doanh, TMQT nên tạo ra giá trị bền vững chính là thực hiện sứ mệnh về TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Các DN này phải tiên phong trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và tăng cường hơn nữa đảm bảo lợi ích cho NLĐ. Đồng thời để thực hiện đạt chất lượng, DN phải tổ chức thực hiện một cách bài bản, hệ thống với tổ chức bộ máy thực hiện một cách chuyên nghiệp. Nhiều DN lớn ngoài việc có tổ chức bộ máy chuyên nghiệp với việc “mở rộng sự tham gia của NLĐ” trong tổ chức bộ máy thực hiện làm cho ranh giới giữa người làm chủ và người làm thuê được xích lại gần nhau hơn. Tại các DN lớn cách thực hiện này giúp cho việc triển khai thực hiện đạt kết quả cao hơn trong điều kiện hội nhập đa văn hóa.
Điều chỉnh nhân tố khách quan tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp may Việt Nam tăng cƣờng trách nhiệm xã hội đối với ngƣời lao động – đề xuất và kiến nghị
Các nhân tố khách quan hay chính là các điều kiện bên ngoài tác động đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của DN bằng sự hỗ trợ, tạo thuận lợi hoặc phản ứng để tạo dấu hiệu định hướng, chấn chỉnh hành vi của DN. DN không thể chủ động với các tác động từ các điều kiện bên ngoài. Để các DN may thực thi TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ có chất lượng thì các bên liên quan ngoài DN, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ban ngành, Hiệp hội dệt may Việt Nam cần tăng cường vai trò của mình cũng như mở rộng vòng tay, giúp sức cải thiện các điều kiện cho DN may nói riêng và các DN nói chung. Một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Đề xuất với các bên liên quan ngoài doanh nghiệp tăng sức ép để các doanh nghiệp may thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động một cách thực chất
Đối với khách hàng – bên liên quan quyền lực nhất định đoạt vận mệnh, sự thành bại của các DN may Việt Nam. Họ nên có những hành động quyết liệt để các DN thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ một cách đầy đủ, thường xuyên, đúng quy trình. Khách hàng phải yêu cầu DN thực hiện nghiêm chỉnh TNXH đảm bảo quyền của NLĐ trong các quy định pháp lý trong Bộ luật lao động về sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, về thời gian làm việc, ATVSLĐ. Đặc biệt là tăng cường TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ như: hỗ trợ nhà ở, chăm sóc sức khỏe nâng cao, trả lương cạnh tranh, trả phụ cấp, trợ cấp cao hơn quy định… Bên cạnh đó khách hàng quốc tế ngày nay sẽ còn yêu cầu cao hơn các CoC về lao động cũng như tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với DN. Vì vậy các DN may phải luôn trong tâm thế “sẵn sàng”, hợp tác với khách hàng huy động mọi nguồn lực để thực hiện các yêu cầu ở hiện tại và cả tương lai.
Đối với nhà cung ứng: Các nhà cung ứng phải cương quyết không cung cấp hàng đối với các DN may không thực hiện TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cũng như vi phạm quyền của NLĐ. Mặt khác, để cùng nhau phát triển nhà cung ứng cũng sẽ tạo điều kiện cung ứng hàng hóa đầy đủ, kịp thời, chất lượng tốt cho các DN may để DN thực hiện kinh doanh thuận lợi nhất. Các nhà cung ứng cũng cần tăng cường liên doanh, liên kết với các DN may. Liên doanh, liên kết theo chiều dọc, chiều ngang trong ngành công nghiệp dệt may. Đây không phải là vấn đề mới, song lại chưa được các nhà cung ứng cũng như DN may chú trọng trong thời qua. Sự kết nối, liên kết giữa các nhà cung ứng may và dệt trong nước còn rất yếu kém, vẫn tồn tại thực trạng “mạnh ai nấy làm”. Từ việc đầu tư dự án sản xuất nguyên phụ liệu cho đến công nghệ, máy móc của các DN may đều đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Do đó, các nhà cung ứng có thể liên kết với một DN khác nhằm tạo nguồn vốn cho dự án, làm tăng vốn mà lại không làm tăng thêm nợ, không phải chịu các khoản lãi cắt cổ. Liên kết làm tăng nguồn lực để nhận các đơn hàng lớn, giảm chi phí đầu vào, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm; Hoặc liên kết với các nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu như Trung Quốc, Ấn Độ cung cấp nguyên phụ liệu (xem hình 16- phụ lục 09). Tăng cường hợp tác giữa các nhà cung ứng với Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp Hội dệt may ASEAN để tăng cường năng lực cung ứng cho các DN may cụ thể: Tháng 3/2016 tại Bangkok Thái Lan, ASEAN đã ban hành hướng dẫn nội dung TNXH đối với NLĐ của DN để hỗ trợ các nhà cung ứng, các DN thực hiện tốt hoạt động này.
Đối với cộng đồng: Các DN may hiện nay có hoạt động xen kẽ trong các khu vực dân cư, cộng đồng. Cộng đồng là những người chịu ảnh hưởng bởi các DN may cũng như có khả năng giám sát và phát hiện các dấu hiệu bất ổn trong thực hiện TNXH đối với NLĐ như là không tuân thủ trách nhiệm đảm bảo quyền và lợi ích về HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi vi phạm đạo đức kinh doanh, đi ngược với mong muốn của cộng đồng, xã hội. Từ đó có những hành động quyết liệt buộc các DN thực hiện đúng hoạt động này. Các kênh truyền thông mà cộng đồng có thể lên tiếng, gây áp lực để DN phải thực hiện đúng thông qua: pano, khẩu hiệu, tờ rơi, đài, báo, Tivi, Internet. Cộng đồng sẽ tham gia vào công tác tuyên truyền, vận động các DN may thực hiện tốt TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ cũng như chủ trương của Đảng và Nhà nước trong Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội, Chiến lược phát triển bền vững, thực hiện tốt PLLĐ. Ngoài ra, DN cần hợp tác với mọi chủ thể đó có cả cộng đồng như trong nền kinh tế như theo quyết định số 145/QĐ/2016/QĐ-TTg Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội: “Huy động tối đa nguồn lực phục vụ xây dựng chiến khai có hiệu quả các chương trình phát triển về lao động – xã hội”. Như vậy cộng đồng có quyền và sức mạnh gây áp lực để các DN may thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ.
Kiến nghị với Nhà nước và các tổ chức liên quan tạo thiết chế thúc đẩy trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại các doanh nghiệp may Việt Nam
Chính phủ cần chú trọng hơn nữa phát triển kinh tế để phát huy cao độ nội lực, khẳng định vị thế của Việt Nam trong TMQT. Gắn kết phát triển kinh tế với đổi mới cơ cấu DN thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế để gia tăng tính quốc tế trong phát triển kinh tế. Đối với các DN may thúc đẩy phát triển cần phải duy trì sức mạnh các nguồn lực trong DN cũng như tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các DN phải đảm bảo, tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ trong làn sóng FDI, ODA để tăng cường chất lượng lao động trong phát triển kinh tế để có được những NLĐ có trình độ chuyên môn, lành nghề tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu với vị trí không còn là “lao động giá rẻ”, vượt lên trên mức đáy trong chuỗi này. Chủ động hội nhập kinh tế được ghi nhận trong Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 04/9/2018: “Tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trong đó hội nhập TMQT là trọng tâm”. Để chủ động hội nhập Chính phủ Việt Nam cần tạo điều kiện thông qua phê chuẩn Công ước 87, Công ước 105 để đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, theo quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội khẳng định: “đến năm 2020 phê chuẩn các công ước còn lại và một số công ước khác của ILO”. Thực hiện TNXH đối với NLĐ sẽ thực hiện tốt các công ước về tiêu chuẩn về lao động toàn cầu. Bên cạnh đó với các FTAs đã đàm phán cần tiến hành nhanh chóng các thủ tục, rà soát pháp lý để ký kết chính thức, trình cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời tiếp tục ký kết các FTAs: RCEP (ASEAN+6), Việt Nam – EFTA, Việt Nam – Israel… Việc ký kết các FTAs này mang lại nhiều “cơ hội hơn” cho các DN may như gia tăng xuất khẩu, thu hút vốn, tiếp cận và nâng cao chất lượng lao động chuẩn khu vực và thế giới. Nâng cao hiệu quả trong hội nhập kinh tế bằng cách tổ chức tốt các giai đoạn trong quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các FTA trong kế hoạch tổng thể với lộ trình
hợp lý. Do đó quy trình tham gia FTA gồm 3 bước (xem hình 17- phụ lục 9).
Giai đoạn 1- Nghiên cứu, đàm phán: Nghiên cứu sơ bộ các nội dung trong hiệp định đó để nhận diện, xác định mô hình để có tính chủ động. Trên cơ sở đó, chuẩn bị nhân lực tham gia đàm phán, là những người am hiểu hệ thống luật pháp và thực tiễn của đất nước, có khả năng phân tích cam kết trong hiệp định.
Giai đoạn 2- Đàm phán và chuẩn bị phê chuẩn: Tìm hiểu nội dung, cơ chế thực hiện, cơ chế giải quyết tranh chấp, chế tài xử phạt khi vi phạm các điều khoản.
Sau đó đánh giá sự thích hợp về mặt luật pháp và thực tiễn trong nước đối với các cam kết trong hiệp định và ra quyết định tham gia hay không tham gia hiệp định.
Giai đoạn 3- Phê chuẩn và thực hiện: Xây dựng lộ trình triển khai bao gồm việc chuẩn bị bộ máy thực thi và biện pháp phòng vệ, kế hoạch và triển khai điều chỉnh luật pháp, chính sách, thiết chế và các biện pháp hỗ trợ thực thi.
thiết chế thuận lợi cho các DN Nhà nước cần ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đối với NLĐ; Quốc hội cần bổ sung thêm bước phân tích tác động của chính sách, dự luật mới. Tham khảo quy trình ban hành luật của rất nhiều nước trên thế giới cho thấy công đoạn đầu tiên của quy trình ban hành pháp luật là phân tích chính sách gồm: nhận biết vấn đề đang phát sinh trong xã hội; tìm nguyên nhân của vấn đề; đề ra giải pháp; nghiên cứu các vướng mắc về tính hợp hiến, hợp pháp; đánh giá tác động của đạo luật dự kiến ban hành; nghiên cứu khả năng tài chính để bảo đảm triển khai các văn bản pháp luật”. Như vậy quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật gồm 7 bước (xem Hình 18- phụ lục 9) từ phân tích tác động của chính sách đến công bố luật, pháp lệnh.
Hoàn thiện nội dung pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ: Quốc hội hoàn thiện khung pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, tiến bộ và đảm bảo tính quốc tế để các DN thực thi như trong Bộ luật lao động:
Đối với HĐLĐ: Trong khoản 2 Điều 3: “NSDLĐ là DN, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.” NSDLĐ là một bên quan trọng trong HĐLĐ vì vậy cần có hướng dẫn cụ thể NSDLĐ; Khoản 2 Điều 22: “Khi HĐLĐ hết hạn mà NLĐ vẫn tiếp tục làm việc mà không ký kết HĐLĐ mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ xác định thời hạn 24 tháng”. Điều này phải quy định rõ thành HĐLĐ xác định thời hạn với thời gian 24 tháng; Điều 37: quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ phải gồm 2 điều kiện: 1 – Có lý do được quy định bởi luật; 2-Tuân thủ thời hạn báo trước. Riêng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì chỉ cần báo trước 45 ngày mà không cần lý do. Đề xuất bỏ lý do, để đảm bảo quyền được lựa chọn việc làm tốt hơn cho người lao động và phòng chống cưỡng bức lao động.
Đối với giờ làm việc: Tại điều 106 quy định: “Về số giờ làm thêm tối đa của NLĐ là không quá 30 giờ/tháng và 1 năm không quá 200 giờ, trường hợp đặc biệt không quá 300 giờ”. Đề xuất tăng số giờ làm thêm tối đa theo hướng quy định 1 ngày làm việc thì NLĐ làm việc bình thường, làm thêm giờ tối đa không quá 12 giờ/ngày và không được phép huy động NLĐ làm thêm giờ liên tục quá 5 ngày làm việc cho mỗi đợt làm thêm giờ. Bên cạnh đó, quy định của Bộ luật Lao động hiện hành đang khống chế số giờ làm thêm thấp hơn tiêu chuẩn các nhãn hàng/người mua hàng cũng đang gây khó khăn cho các DN may gia công hàng xuất khẩu. Vì thế Quốc hội xem xét mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ trong các trường hợp đặc biệt sẽ tăng thêm 100 giờ/năm so với hiện hành, từ tối đa 300 giờ/năm lên 400 giờ/năm để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động và tăng sự linh hoạt trong bố trí sản xuất kinh doanh của các DN may.
Đối với tiền lương và phúc lợi: Tại khoản 1 Điều 91: quy định, mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Đề xuất sửa đổi quy định mức lương tối thiểu theo hướng đảm bảo “mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ” và đề nghị bổ sung thêm các yếu tố xác định mức lương tối thiểu vùng; Điều 61: “Học nghề, tập nghề để làm việc cho NSDLĐ”. Theo đó, phải quy định rõ thời gian tối đa học nghề, học tập của NLĐ tại DN đề NLĐ sau thời gian đó được hưởng mức lương, phúc lợi người học.
Đối với ATVSLĐ: Luật ATVSLĐ cần đơn giản hóa các thủ tục để cấp giấy chứng nhận cho DN và quy định mức phạt từ 100 -200 triệu đồng để răn đe các DN vị phạm; Phạt từ 10-20 triệu đồng để NLĐ nâng cao ý thức thực hiện ATVSLĐ.
Để NSDLĐ và NLĐ không bị đẩy vào “chỗ khó” khi triển khai Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ. Nhà nước cần có những hướng dẫn cụ thể, hỗ trợ kịp thời khi các DN thực hiện các quy định về chính sách đặc thù đối với NLĐ nữ. Mức độ áp dụng tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi DN về: định kỳ gắn với khám chuyên khoa phụ sản hàng năm, chế độ thai sản, nghỉ mỗi ngày 30 phút trong thời gian hành kinh, 60 phút trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Nhà nước cần phải ưu tiên hỗ trợ các DN may với đa số là NLĐ nữ như: hỗ trợ phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; lắp đặt phòng vắt trữ sữa cho lao động nữ nuôi con nhỏ, xây dựng nhà trẻ. Đặc biệt phải có những chính sách hỗ trợ DN đối với NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ làm việc hiện nay tuổi đa cao, sức khỏe đã giảm sút. Đồng thời phải có chế tài xử phạt đủ mạnh, đủ sức răn đe nếu các DN đuổi NLĐ nữ một cách vô cớ.
Ngoài ra, thực hiện rà soát lại hệ thống pháp luật và chính sách có liên quan về TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Vì trong quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội đã nhận định: “Đến năm, 2030 đảm bảo nội luật hóa toàn bộ các cam kết về lao động quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu”. Tổ chức việc thực hiện pháp luật có liên quan đến TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ như: quy định trong Luật lao động, Luật việc làm, Luật an toàn vệ sinh lao động đặc biệt là Luật bình đẳng giới với mục đích để tạo động lực thực hiện TNXH đảm bảo quyền NLĐ tại các DN may.
Nhà nước phải phân trách nhiệm rõ ràng giữa Bộ Công thương chịu trách nhiệm; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và công nghệ và các ngành liên quan về TNXH đối với NLĐ của các DN một cách rõ ràng, tránh hiện tượng chồng chéo hay bỏ sót nhiệm vụ theo hướng hợp nhất các cơ quan quản lý nhà nước và quy định cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành liên quan. Ở mỗi ngành cụ thể như ngành dệt may cần phân định rạch ròi giữa chủ thể quản lý và đối tượng thực hiện theo chuỗi giá trị của các DN để đạt hiệu quả cao hơn. Tổ chức ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật liên quan đến TNXH đối đảm bảo quyền cho NLĐ của DN một cách cụ thể, tránh xâm lấn lên nhau.
Nhà nước cần hình thành kênh thông tin phản hồi để có thể tiếp nhận nhanh chóng những vấn đề vướng mắc trong Bộ luật, luật và các văn bản hướng dẫn để từ đó có thể đưa ra những hướng dẫn, giải pháp kịp thời. Nhà nước nên soạn thảo văn bản hướng dẫn dưới dạng cẩm nang hướng dẫn thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN.
Nhà nước cần có chính sách miễn thuế với những khu đất mà các DN may thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích trong các chương trình phúc lợi mở rộng như: xây nhà cho NLĐ xa nhà, xây nhà trẻ cho công em NLĐ, nhà văn hóa công nhân…. Bên cạnh đó, Bộ lao động Thương binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phối hợp với các ngân hàng thành lập “Quỹ hỗ trợ và thúc đẩy thực hiện TNXH đối với NLĐ” và sử dụng quỹ này một cách hợp lý. Quỹ này đặc biệt hỗ trợ cho NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ việc làm tại các DN may với tuổi đã cao, sức khỏe giảm sút, khó tìm việc làm mới, khó xây dựng gia đình… để đảm bảo tính thiết thực, tính bền vững của các chính sách về việc làm, Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ thì Nhà nước cần phân công rõ vai trò và huy động trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, DN và trách nhiệm của bản thân NLĐ để đây không còn là vấn đề “nhức nhối” của NLĐ nữ tại các DN may nói riêng và NLĐ nữ tại các khu công nghiệp nói chung.
Đẩy mạnh liên kết giữa Nhà nước với các tổ chức/hiệp hội trong và ngoài nước trong ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng (theo nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ). Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Public – Private Partner gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, DN. Hợp tác công – tư sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của các bên tham gia đóng góp cho sự phát triển ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng theo hướng phát triển bền vững (xem Hộp 9 – phụ lục 11).
Nhà nước bổ sung thêm vào nhiệm vụ thanh tra, chức năng giám sát, kiểm tra và tư vấn cho các DN trong việc thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ; Thiết lập cơ chế ba bên giữa Chính phủ, VGVL, VCCI. Trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng bên và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra.
Nhà nước cần thúc đẩy việc thành lập và trao quyền cho các cơ quan giám sát độc lập như ILO, IFC, MOLISA về thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Từ đó cơ quan này kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót của các DN, đồng thời có chế tài xử phạt nghiêm minh, có tính răn đe đối với các DN may vi phạm.
Để khuyến khích các DN may ứng dụng các CoC về lao động quốc tế thì Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng và VITAS nên đầu tư xây dựng một bộ CoC chung được hình thành trên cơ sở tích hợp các quy định của các CoC về lao động như: SA8000, WRAP… đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài, các quốc gia khác quy định buộc các DN may muốn xuất khẩu hàng hóa hoặc có quan hệ hợp tác với các nước phải tuân thủ. Thiết lập một hệ thống thông tin chuyên theo dõi, phân tích, cung cấp các yêu cầu về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của đối tác nước ngoài cho các DN may. Cùng với đó, VITAS và Bộ Khoa học công nghệ xây dựng bộ công cụ hướng dẫn, kiểm tra mức độ đạt các CoC về lao động qua Internet hay thiết bị di động như: ứng dụng phần mềm App trên thiết bị di động để DN tiếp cận, tra cứu thông tin về mức độ đạt CoC qua đó giúp DN tự khám “sức khỏe” khi nộp hồ sơ xin cấp đạt CoC đó.
Thúc đẩy các DN tiếp cận các CoC trong thực hiện đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cần có sự phối hợp giữa MOLISA, VGVL, VCCI phối hợp để hỗ trợ kỹ thuật để xây dựng các mô hình mẫu về các DN thực hiện tốt TNXH đối với NLĐ về các CoC: SA8000, WRAP. Biểu dương các DN đạt được lợi nhuận cao từ thực hiện TNXH đối với NLĐ để các DN may học tập. Bên cạnh đó, Bộ giáo dục và các Trường Đại học, Cao đẳng cần phải đào tạo về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ trong các khối ngành quản trị kinh doanh, quản lý lao động. Thiết lập các chương trình đào tạo về việc tính toán lợi ích và lợi nhuận mà các DN sẽ đạt được khi thực hiện CoC SA8000, WRAP, OHSAS 18001.
Để tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN may thì VITAS đẩy mạnh các hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ các DN may trong ngành hội thảo, hội nghị, tư vấn, đào tạo để các DN may cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, vượt qua những khó khăn trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Tổ chức các cuộc thi, phát động phong trào về thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ, phong trào xây dựng và áp dụng các hệ thống SA8000, WRAP… để các DN may đã vận hành thành công các CoC đó có cơ hội quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho xã hội. Từ đó tạo diễn đàn trao đổi học hỏi giữa các DN trong ngành. VITAS cũng nên thống nhất xây dựng các quy chuẩn chung về các vấn đề liên quan đến TNXH đảm bảo quyền và lợi ích để các DN may trong ngành có thể thuận tiện sử dụng và đánh giá, giám định của các đối tác.
VITAS phối hợp với VGVL, Liên đoàn Dệt May các nước Đông Nam Á ban hành Bộ tài liệu hướng dẫn kỹ năng nghề, kỹ năng đào tạo nghiệp vụ may cho các DN. Bên cạnh đó, trong thời gian tới Hiệp hội cần xây bộ tiêu chuẩn nghề may quốc gia đồng thời VITAS cần tạo ra sự phối kết hợp giữa cơ sở đào tạo với các DN may để nâng cao chất lượng lao động cũng như đáp ứng nhu cầu học hỏi, đổi mới của NLĐ; Các Trung tâm Giới thiệu việc làm chính là “cầu nối” giữa NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy cần phát huy hơn nữa vai trò hiệu quả của sàn giao dịch việc làm của các thành phố trung tâm như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các địa phương lân cận bảo đảm hiệu quả thông tin cung – cầu lao động may mặc được cập nhật chính xác, thường xuyên, kịp thời, tạo kết nối; Bộ thông tin và truyền thông cũng như các cơ quan thông tin đại chúng nên có chương trình và dành thời lượng thích đáng cho tuyên truyền, khuyếch trương những DN thành công trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ.
VGVL cần đổi mới toàn diện, mạnh mẽ để tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo, chỉ đường, dẫn dắt NLĐ trong bối cảnh Việt nam đang thực hiện cam kết quốc tế về lao động trong các FTA tự do thế hệ mới và các Công ước của ILO (đặc biệt công ước 98 về thương lượng tập thể mới ký kết 7/2019) cũng như thực hiện TNXH bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, để thu hút sự tham gia và tin tưởng của NLĐ.
Đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động
Các DN may cần chủ động đầu tư tài chính thích đáng cho thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ:
Thứ nhất, nguồn lực tài chính của các DN may là hữu hạn vì thế cần căn cứ vào hoạch định chiến lược và mô hình TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ đã lựa chọn trên cơ sở đó xác định các khoản chi phí hiển thị cần chuẩn bị để thực hiện theo từng giai đoạn từ đó xác định ngân sách cần có cho hoạt động này. Đồng thời chỉ rõ nguồn tài chính cho các hoạt động.
Thứ hai, triển khai các chính sách, biện pháp phù hợp nâng cao hiệu quả huy động vốn, bổ sung vốn phù hợp với khả năng của DN. Trong điều kiện cạnh tranh, DN tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ, quỹ hỗ trợ DNNVV, quỹ hỗ trợ sắp xếp, phát triển DN với chính sách ưu tiên, ưu đãi như vay vốn kích cầu đầu tư hạ tầng cụm của các nhà đầu tư cũng như chính sách hỗ trợ tín dụng và khuyến khích sản phẩm mới, ưu đãi chi phí duy tu bảo dưỡng hạ tầng, chi phí thuê đất. Đây là những nguồn hỗ trợ, chính sách ưu đãi giúp các DN may sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, chú trọng đến quỹ lương, thưởng, phúc lợi. Đối với quỹ lương và hoàn thiện các hình thức trả lương bằng việc áp dụng phương pháp trả lương linh hoạt, phương pháp trả lương hỗn hợp- 3Ps (Position – Person – Performance). Ví dụ như trả lương 3P (xem hình 15 – phụ lục 9). Đây là sự kết hợp của các phương pháp trả lương, là cách thức tính lương cho NLĐ dựa vào các yếu tố quyết định như giá trị công việc, kỹ năng, kiến thức của NLĐ, kết quả thực hiện công việc, cụ thể như:
P1: Trả lương theo vị trí chức danh công việc. Mỗi công việc đều có dải lương từ Min – Max và các ngạch lương.
P2: Trả lương theo cá nhân thông qua đánh giá năng lực nhân viên. Tùy vào năng lực để xếp lương cho cá nhân (mức lương trong dải lương Min-Max).
P3: Trả lương theo hiệu quả, kết quả hoàn thành công việc. Dựa trên mục tiêu đã thiết lập cho từng cá nhân để đánh giá kết quả thực hiện.
Thứ tư, tuân thủ nghiêm chỉnh định kỳ báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả ngân sách thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ mặc dù việc được thực hiện linh hoạt, thích nghi với môi trường và hiệu quả nhưng các DN may cần phải chủ động hoạch định ngân sách cho hoạt động này.
Lựa chọn mô hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp may
Để có thể xây dựng và duy trì các chương trình, bộ tiêu chuẩn TNXH về lao động đòi hỏi DN cần phải có nguồn tài chính đủ lớn. Chính vì vậy, những DN điển hình trên thế giới cũng như trong nước về thực hiện TNXH đối với NLĐ phần lớn là các DN có quy mô lớn. Báo cáo chỉ số phát triển TNXH của Trung Quốc, (2015) đã cho thấy: “DN quy mô càng lớn thì chỉ số TNXH càng cao. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh của DN chỉ ảnh hưởng đến phạm vi và mức độ gánh vác TNXH của họ chứ không có hàm ý rằng các DN yếu về tài chính thì sẽ không quan tâm tới TNXH”. Vì thế, thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ phải được thực hiện cả ở DN lớn, DNNVV.
Đối với các DNNVV: Để ổn định, phát triển các DN luôn luôn cần đội ngũ lao động có tay nghề, có chất lượng. Vì vậy, để thu hút, duy trì đội ngũ này thì dù là DN vừa hay nhỏ thì thực hiện TNXH là một điều tất yếu. Bên cạnh đó sự phát triển của DN và xã hội có mối quan hệ tương hỗ, không thể tách rời. Thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ tạo quan hệ lao động êm ấm, ổn định. Mô hình mà các DNNVV có thể lựa chọn phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển từ giai đoạn hình thành đến giai đoạn tăng trưởng, ổn định để thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích trong HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi … với bộ máy, bộ phận tổ chức thực hiện linh hoạt, phù hợp.
Đối với các DN lớn: Các DN lớn đã có năng lực vị thế của mình trong kinh doanh, TMQT nên tạo ra giá trị bền vững chính là thực hiện sứ mệnh về TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Các DN này phải tiên phong trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và tăng cường hơn nữa đảm bảo lợi ích cho NLĐ. Đồng thời để thực hiện đạt chất lượng, DN phải tổ chức thực hiện một cách bài bản, hệ thống với tổ chức bộ máy thực hiện một cách chuyên nghiệp. Nhiều DN lớn ngoài việc có tổ chức bộ máy chuyên nghiệp với việc “mở rộng sự tham gia của NLĐ” trong tổ chức bộ máy thực hiện làm cho ranh giới giữa người làm chủ và người làm thuê được xích lại gần nhau hơn. Tại các DN lớn cách thực hiện này giúp cho việc triển khai thực hiện đạt kết quả cao hơn trong điều kiện hội nhập đa văn hóa.
Điều chỉnh nhân tố khách quan tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp may Việt Nam tăng cường trách nhiệm xã hội đối với ngƣời lao động – đề xuất và kiến nghị
Các nhân tố khách quan hay chính là các điều kiện bên ngoài tác động đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của DN bằng sự hỗ trợ, tạo thuận lợi hoặc phản ứng để tạo dấu hiệu định hướng, chấn chỉnh hành vi của DN. DN không thể chủ động với các tác động từ các điều kiện bên ngoài. Để các DN may thực thi TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ có chất lượng thì các bên liên quan ngoài DN, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ban ngành, Hiệp hội dệt may Việt Nam cần tăng cường vai trò của mình cũng như mở rộng vòng tay, giúp sức cải thiện các điều kiện cho DN may nói riêng và các DN nói chung. Một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Đề xuất với các bên liên quan ngoài doanh nghiệp tăng sức ép để các doanh nghiệp may thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động một cách thực chất
Đối với khách hàng – bên liên quan quyền lực nhất định đoạt vận mệnh, sự thành bại của các DN may Việt Nam. Họ nên có những hành động quyết liệt để các DN thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ một cách đầy đủ, thường xuyên, đúng quy trình. Khách hàng phải yêu cầu DN thực hiện nghiêm chỉnh TNXH đảm bảo quyền của NLĐ trong các quy định pháp lý trong Bộ luật lao động về sử dụng lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, về thời gian làm việc, ATVSLĐ. Đặc biệt là tăng cường TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ như: hỗ trợ nhà ở, chăm sóc sức khỏe nâng cao, trả lương cạnh tranh, trả phụ cấp, trợ cấp cao hơn quy định… Bên cạnh đó khách hàng quốc tế ngày nay sẽ còn yêu cầu cao hơn các CoC về lao động cũng như tiêu chuẩn lao động quốc tế đối với DN. Vì vậy các DN may phải luôn trong tâm thế “sẵn sàng”, hợp tác với khách hàng huy động mọi nguồn lực để thực hiện các yêu cầu ở hiện tại và cả tương lai.
Đối với nhà cung ứng: Các nhà cung ứng phải cương quyết không cung cấp hàng đối với các DN may không thực hiện TNXH, TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cũng như vi phạm quyền của NLĐ. Mặt khác, để cùng nhau phát triển nhà cung ứng cũng sẽ tạo điều kiện cung ứng hàng hóa đầy đủ, kịp thời, chất lượng tốt cho các DN may để DN thực hiện kinh doanh thuận lợi nhất. Các nhà cung ứng cũng cần tăng cường liên doanh, liên kết với các DN may. Liên doanh, liên kết theo chiều dọc, chiều ngang trong ngành công nghiệp dệt may. Đây không phải là vấn đề mới, song lại chưa được các nhà cung ứng cũng như DN may chú trọng trong thời qua. Sự kết nối, liên kết giữa các nhà cung ứng may và dệt trong nước còn rất yếu kém, vẫn tồn tại thực trạng “mạnh ai nấy làm”. Từ việc đầu tư dự án sản xuất nguyên phụ liệu cho đến công nghệ, máy móc của các DN may đều đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Do đó, các nhà cung ứng có thể liên kết với một DN khác nhằm tạo nguồn vốn cho dự án, làm tăng vốn mà lại không làm tăng thêm nợ, không phải chịu các khoản lãi cắt cổ. Liên kết làm tăng nguồn lực để nhận các đơn hàng lớn, giảm chi phí đầu vào, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm; Hoặc liên kết với các nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu như Trung Quốc, Ấn Độ cung cấp nguyên phụ liệu (xem hình 16- phụ lục 09). Tăng cường hợp tác giữa các nhà cung ứng với Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp Hội dệt may ASEAN để tăng cường năng lực cung ứng cho các DN may cụ thể: Tháng 3/2016 tại Bangkok Thái Lan, ASEAN đã ban hành hướng dẫn nội dung TNXH đối với NLĐ của DN để hỗ trợ các nhà cung ứng, các DN thực hiện tốt hoạt động này.
Đối với cộng đồng: Các DN may hiện nay có hoạt động xen kẽ trong các khu vực dân cư, cộng đồng. Cộng đồng là những người chịu ảnh hưởng bởi các DN may cũng như có khả năng giám sát và phát hiện các dấu hiệu bất ổn trong thực hiện TNXH đối với NLĐ như là không tuân thủ trách nhiệm đảm bảo quyền và lợi ích về HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi vi phạm đạo đức kinh doanh, đi ngược với mong muốn của cộng đồng, xã hội. Từ đó có những hành động quyết liệt buộc các DN thực hiện đúng hoạt động này. Các kênh truyền thông mà cộng đồng có thể lên tiếng, gây áp lực để DN phải thực hiện đúng thông qua: pano, khẩu hiệu, tờ rơi, đài, báo, Tivi, Internet. Cộng đồng sẽ tham gia vào công tác tuyên truyền, vận động các DN may thực hiện tốt TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ cũng như chủ trương của Đảng và Nhà nước trong Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội, Chiến lược phát triển bền vững, thực hiện tốt PLLĐ. Ngoài ra, DN cần hợp tác với mọi chủ thể đó có cả cộng đồng như trong nền kinh tế như theo quyết định số 145/QĐ/2016/QĐ-TTg Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội: “Huy động tối đa nguồn lực phục vụ xây dựng chiến khai có hiệu quả các chương trình phát triển về lao động – xã hội”. Như vậy cộng đồng có quyền và sức mạnh gây áp lực để các DN may thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ.
Kiến nghị với Nhà nước và các tổ chức liên quan tạo thiết chế thúc đẩy trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại các doanh nghiệp may Việt Nam
Chính phủ cần chú trọng hơn nữa phát triển kinh tế để phát huy cao độ nội lực, khẳng định vị thế của Việt Nam trong TMQT. Gắn kết phát triển kinh tế với đổi mới cơ cấu DN thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế để gia tăng tính quốc tế trong phát triển kinh tế. Đối với các DN may thúc đẩy phát triển cần phải duy trì sức mạnh các nguồn lực trong DN cũng như tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các DN phải đảm bảo, tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền, lợi ích cho NLĐ trong làn sóng FDI, ODA để tăng cường chất lượng lao động trong phát triển kinh tế để có được những NLĐ có trình độ chuyên môn, lành nghề tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu với vị trí không còn là “lao động giá rẻ”, vượt lên trên mức đáy trong chuỗi này. Chủ động hội nhập kinh tế được ghi nhận trong Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 04/9/2018: “Tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trong đó hội nhập TMQT là trọng tâm”. Để chủ động hội nhập Chính phủ Việt Nam cần tạo điều kiện thông qua phê chuẩn Công ước 87, Công ước 105 để đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, theo quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội khẳng định: “đến năm 2020 phê chuẩn các công ước còn lại và một số công ước khác của ILO”. Thực hiện TNXH đối với NLĐ sẽ thực hiện tốt các công ước về tiêu chuẩn về lao động toàn cầu. Bên cạnh đó với các FTAs đã đàm phán cần tiến hành nhanh chóng các thủ tục, rà soát pháp lý để ký kết chính thức, trình cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời tiếp tục ký kết các FTAs: RCEP (ASEAN+6), Việt Nam – EFTA, Việt Nam – Israel… Việc ký kết các FTAs này mang lại nhiều “cơ hội hơn” cho các DN may như gia tăng xuất khẩu, thu hút vốn, tiếp cận và nâng cao chất lượng lao động chuẩn khu vực và thế giới. Nâng cao hiệu quả trong hội nhập kinh tế bằng cách tổ chức tốt các giai đoạn trong quá trình đàm phán, ký kết và thực thi các FTA trong kế hoạch tổng thể với lộ trình
hợp lý. Do đó quy trình tham gia FTA gồm 3 bước (xem hình 17- phụ lục 9).
Giai đoạn 1- Nghiên cứu, đàm phán: Nghiên cứu sơ bộ các nội dung trong hiệp định đó để nhận diện, xác định mô hình để có tính chủ động. Trên cơ sở đó, chuẩn bị nhân lực tham gia đàm phán, là những người am hiểu hệ thống luật pháp và thực tiễn của đất nước, có khả năng phân tích cam kết trong hiệp định.
Giai đoạn 2- Đàm phán và chuẩn bị phê chuẩn: Tìm hiểu nội dung, cơ chế thực hiện, cơ chế giải quyết tranh chấp, chế tài xử phạt khi vi phạm các điều khoản.
Sau đó đánh giá sự thích hợp về mặt luật pháp và thực tiễn trong nước đối với các cam kết trong hiệp định và ra quyết định tham gia hay không tham gia hiệp định.
Giai đoạn 3- Phê chuẩn và thực hiện: Xây dựng lộ trình triển khai bao gồm việc chuẩn bị bộ máy thực thi và biện pháp phòng vệ, kế hoạch và triển khai điều chỉnh luật pháp, chính sách, thiết chế và các biện pháp hỗ trợ thực thi.
thiết chế thuận lợi cho các DN Nhà nước cần ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đối với NLĐ; Quốc hội cần bổ sung thêm bước phân tích tác động của chính sách, dự luật mới. Tham khảo quy trình ban hành luật của rất nhiều nước trên thế giới cho thấy công đoạn đầu tiên của quy trình ban hành pháp luật là phân tích chính sách gồm: nhận biết vấn đề đang phát sinh trong xã hội; tìm nguyên nhân của vấn đề; đề ra giải pháp; nghiên cứu các vướng mắc về tính hợp hiến, hợp pháp; đánh giá tác động của đạo luật dự kiến ban hành; nghiên cứu khả năng tài chính để bảo đảm triển khai các văn bản pháp luật”. Như vậy quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật gồm 7 bước (xem Hình 18- phụ lục 9) từ phân tích tác động của chính sách đến công bố luật, pháp lệnh.
Hoàn thiện nội dung pháp luật liên quan đến thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ: Quốc hội hoàn thiện khung pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, tiến bộ và đảm bảo tính quốc tế để các DN thực thi như trong Bộ luật lao động:
Đối với HĐLĐ: Trong khoản 2 Điều 3: “NSDLĐ là DN, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.” NSDLĐ là một bên quan trọng trong HĐLĐ vì vậy cần có hướng dẫn cụ thể NSDLĐ; Khoản 2 Điều 22: “Khi HĐLĐ hết hạn mà NLĐ vẫn tiếp tục làm việc mà không ký kết HĐLĐ mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 22 trở thành HĐLĐ xác định thời hạn 24 tháng”. Điều này phải quy định rõ thành HĐLĐ xác định thời hạn với thời gian 24 tháng; Điều 37: quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ phải gồm 2 điều kiện: 1 – Có lý do được quy định bởi luật; 2-Tuân thủ thời hạn báo trước. Riêng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì chỉ cần báo trước 45 ngày mà không cần lý do. Đề xuất bỏ lý do, để đảm bảo quyền được lựa chọn việc làm tốt hơn cho người lao động và phòng chống cưỡng bức lao động.
Đối với giờ làm việc: Tại điều 106 quy định: “Về số giờ làm thêm tối đa của NLĐ là không quá 30 giờ/tháng và 1 năm không quá 200 giờ, trường hợp đặc biệt không quá 300 giờ”. Đề xuất tăng số giờ làm thêm tối đa theo hướng quy định 1 ngày làm việc thì NLĐ làm việc bình thường, làm thêm giờ tối đa không quá 12 giờ/ngày và không được phép huy động NLĐ làm thêm giờ liên tục quá 5 ngày làm việc cho mỗi đợt làm thêm giờ. Bên cạnh đó, quy định của Bộ luật Lao động hiện hành đang khống chế số giờ làm thêm thấp hơn tiêu chuẩn các nhãn hàng/người mua hàng cũng đang gây khó khăn cho các DN may gia công hàng xuất khẩu. Vì thế Quốc hội xem xét mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ trong các trường hợp đặc biệt sẽ tăng thêm 100 giờ/năm so với hiện hành, từ tối đa 300 giờ/năm lên 400 giờ/năm để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động và tăng sự linh hoạt trong bố trí sản xuất kinh doanh của các DN may.
Đối với tiền lương và phúc lợi: Tại khoản 1 Điều 91: quy định, mức lương tối thiểu phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Đề xuất sửa đổi quy định mức lương tối thiểu theo hướng đảm bảo “mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ” và đề nghị bổ sung thêm các yếu tố xác định mức lương tối thiểu vùng; Điều 61: “Học nghề, tập nghề để làm việc cho NSDLĐ”. Theo đó, phải quy định rõ thời gian tối đa học nghề, học tập của NLĐ tại DN đề NLĐ sau thời gian đó được hưởng mức lương, phúc lợi người học.
Đối với ATVSLĐ: Luật ATVSLĐ cần đơn giản hóa các thủ tục để cấp giấy chứng nhận cho DN và quy định mức phạt từ 100 -200 triệu đồng để răn đe các DN vị phạm; Phạt từ 10-20 triệu đồng để NLĐ nâng cao ý thức thực hiện ATVSLĐ.
Để NSDLĐ và NLĐ không bị đẩy vào “chỗ khó” khi triển khai Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ. Nhà nước cần có những hướng dẫn cụ thể, hỗ trợ kịp thời khi các DN thực hiện các quy định về chính sách đặc thù đối với NLĐ nữ. Mức độ áp dụng tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi DN về: định kỳ gắn với khám chuyên khoa phụ sản hàng năm, chế độ thai sản, nghỉ mỗi ngày 30 phút trong thời gian hành kinh, 60 phút trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Nhà nước cần phải ưu tiên hỗ trợ các DN may với đa số là NLĐ nữ như: hỗ trợ phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; lắp đặt phòng vắt trữ sữa cho lao động nữ nuôi con nhỏ, xây dựng nhà trẻ. Đặc biệt phải có những chính sách hỗ trợ DN đối với NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ làm việc hiện nay tuổi đa cao, sức khỏe đã giảm sút. Đồng thời phải có chế tài xử phạt đủ mạnh, đủ sức răn đe nếu các DN đuổi NLĐ nữ một cách vô cớ.
Ngoài ra, thực hiện rà soát lại hệ thống pháp luật và chính sách có liên quan về TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Vì trong quyết định 145/QĐ-TTg Chiến lược quốc tế về lao động và xã hội đã nhận định: “Đến năm, 2030 đảm bảo nội luật hóa toàn bộ các cam kết về lao động quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu”. Tổ chức việc thực hiện pháp luật có liên quan đến TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ như: quy định trong Luật lao động, Luật việc làm, Luật an toàn vệ sinh lao động đặc biệt là Luật bình đẳng giới với mục đích để tạo động lực thực hiện TNXH đảm bảo quyền NLĐ tại các DN may.
Nhà nước phải phân trách nhiệm rõ ràng giữa Bộ Công thương chịu trách nhiệm; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và công nghệ và các ngành liên quan về TNXH đối với NLĐ của các DN một cách rõ ràng, tránh hiện tượng chồng chéo hay bỏ sót nhiệm vụ theo hướng hợp nhất các cơ quan quản lý nhà nước và quy định cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành liên quan. Ở mỗi ngành cụ thể như ngành dệt may cần phân định rạch ròi giữa chủ thể quản lý và đối tượng thực hiện theo chuỗi giá trị của các DN để đạt hiệu quả cao hơn. Tổ chức ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật liên quan đến TNXH đối đảm bảo quyền cho NLĐ của DN một cách cụ thể, tránh xâm lấn lên nhau.
Nhà nước cần hình thành kênh thông tin phản hồi để có thể tiếp nhận nhanh chóng những vấn đề vướng mắc trong Bộ luật, luật và các văn bản hướng dẫn để từ đó có thể đưa ra những hướng dẫn, giải pháp kịp thời. Nhà nước nên soạn thảo văn bản hướng dẫn dưới dạng cẩm nang hướng dẫn thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN.
Nhà nước cần có chính sách miễn thuế với những khu đất mà các DN may thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích trong các chương trình phúc lợi mở rộng như: xây nhà cho NLĐ xa nhà, xây nhà trẻ cho công em NLĐ, nhà văn hóa công nhân…. Bên cạnh đó, Bộ lao động Thương binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phối hợp với các ngân hàng thành lập “Quỹ hỗ trợ và thúc đẩy thực hiện TNXH đối với NLĐ” và sử dụng quỹ này một cách hợp lý. Quỹ này đặc biệt hỗ trợ cho NLĐ nữ khi kết thúc quan hệ việc làm tại các DN may với tuổi đã cao, sức khỏe giảm sút, khó tìm việc làm mới, khó xây dựng gia đình… để đảm bảo tính thiết thực, tính bền vững của các chính sách về việc làm, Nghị định 85/2015/NĐ-CP về chính sách đối với lao động nữ thì Nhà nước cần phân công rõ vai trò và huy động trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, DN và trách nhiệm của bản thân NLĐ để đây không còn là vấn đề “nhức nhối” của NLĐ nữ tại các DN may nói riêng và NLĐ nữ tại các khu công nghiệp nói chung.
Đẩy mạnh liên kết giữa Nhà nước với các tổ chức/hiệp hội trong và ngoài nước trong ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng (theo nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ). Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Public – Private Partner gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, DN. Hợp tác công – tư sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của các bên tham gia đóng góp cho sự phát triển ngành dệt may nói chung và các DN may Việt Nam nói riêng theo hướng phát triển bền vững (xem Hộp 9 – phụ lục 11).
Nhà nước bổ sung thêm vào nhiệm vụ thanh tra, chức năng giám sát, kiểm tra và tư vấn cho các DN trong việc thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ; Thiết lập cơ chế ba bên giữa Chính phủ, VGVL, VCCI. Trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng bên và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra.
Nhà nước cần thúc đẩy việc thành lập và trao quyền cho các cơ quan giám sát độc lập như ILO, IFC, MOLISA về thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ. Từ đó cơ quan này kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót của các DN, đồng thời có chế tài xử phạt nghiêm minh, có tính răn đe đối với các DN may vi phạm.
Để khuyến khích các DN may ứng dụng các CoC về lao động quốc tế thì Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng và VITAS nên đầu tư xây dựng một bộ CoC chung được hình thành trên cơ sở tích hợp các quy định của các CoC về lao động như: SA8000, WRAP… đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài, các quốc gia khác quy định buộc các DN may muốn xuất khẩu hàng hóa hoặc có quan hệ hợp tác với các nước phải tuân thủ. Thiết lập một hệ thống thông tin chuyên theo dõi, phân tích, cung cấp các yêu cầu về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của đối tác nước ngoài cho các DN may. Cùng với đó, VITAS và Bộ Khoa học công nghệ xây dựng bộ công cụ hướng dẫn, kiểm tra mức độ đạt các CoC về lao động qua Internet hay thiết bị di động như: ứng dụng phần mềm App trên thiết bị di động để DN tiếp cận, tra cứu thông tin về mức độ đạt CoC qua đó giúp DN tự khám “sức khỏe” khi nộp hồ sơ xin cấp đạt CoC đó.
Thúc đẩy các DN tiếp cận các CoC trong thực hiện đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ cần có sự phối hợp giữa MOLISA, VGVL, VCCI phối hợp để hỗ trợ kỹ thuật để xây dựng các mô hình mẫu về các DN thực hiện tốt TNXH đối với NLĐ về các CoC: SA8000, WRAP. Biểu dương các DN đạt được lợi nhuận cao từ thực hiện TNXH đối với NLĐ để các DN may học tập. Bên cạnh đó, Bộ giáo dục và các Trường Đại học, Cao đẳng cần phải đào tạo về TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ trong các khối ngành quản trị kinh doanh, quản lý lao động. Thiết lập các chương trình đào tạo về việc tính toán lợi ích và lợi nhuận mà các DN sẽ đạt được khi thực hiện CoC SA8000, WRAP, OHSAS 18001.
Để tăng cường thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ của các DN may thì VITAS đẩy mạnh các hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ các DN may trong ngành hội thảo, hội nghị, tư vấn, đào tạo để các DN may cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, vượt qua những khó khăn trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền cho NLĐ. Tổ chức các cuộc thi, phát động phong trào về thực hiện TNXH đảm bảo lợi ích cho NLĐ, phong trào xây dựng và áp dụng các hệ thống SA8000, WRAP… để các DN may đã vận hành thành công các CoC đó có cơ hội quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho xã hội. Từ đó tạo diễn đàn trao đổi học hỏi giữa các DN trong ngành. VITAS cũng nên thống nhất xây dựng các quy chuẩn chung về các vấn đề liên quan đến TNXH đảm bảo quyền và lợi ích để các DN may trong ngành có thể thuận tiện sử dụng và đánh giá, giám định của các đối tác.
VITAS phối hợp với VGVL, Liên đoàn Dệt May các nước Đông Nam Á ban hành Bộ tài liệu hướng dẫn kỹ năng nghề, kỹ năng đào tạo nghiệp vụ may cho các DN. Bên cạnh đó, trong thời gian tới Hiệp hội cần xây bộ tiêu chuẩn nghề may quốc gia đồng thời VITAS cần tạo ra sự phối kết hợp giữa cơ sở đào tạo với các DN may để nâng cao chất lượng lao động cũng như đáp ứng nhu cầu học hỏi, đổi mới của NLĐ; Các Trung tâm Giới thiệu việc làm chính là “cầu nối” giữa NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy cần phát huy hơn nữa vai trò hiệu quả của sàn giao dịch việc làm của các thành phố trung tâm như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các sàn giao dịch việc làm vệ tinh tại các địa phương lân cận bảo đảm hiệu quả thông tin cung – cầu lao động may mặc được cập nhật chính xác, thường xuyên, kịp thời, tạo kết nối; Bộ thông tin và truyền thông cũng như các cơ quan thông tin đại chúng nên có chương trình và dành thời lượng thích đáng cho tuyên truyền, khuyếch trương những DN thành công trong thực hiện TNXH đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ.
VGVL cần đổi mới toàn diện, mạnh mẽ để tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo, chỉ đường, dẫn dắt NLĐ trong bối cảnh Việt nam đang thực hiện cam kết quốc tế về lao động trong các FTA tự do thế hệ mới và các Công ước của ILO (đặc biệt công ước 98 về thương lượng tập thể mới ký kết 7/2019) cũng như thực hiện TNXH bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, để thu hút sự tham gia và tin tưởng của NLĐ.
Để lại một bình luận