Theo Kerlinger (1973, trang 9)5, “lý thuyết là một tập hợp các khái niệm nghiên cứu có quan hệ lẫn nhau, các định nghĩa và các giả thuyết mà những điều này thể hiện các hiện tượng khoa học một cách có hệ thống thông qua mối quan hệ giữa các biến, nhằm mục đích giải thích và tiên lượng các hiện tượng”. Đơn giản hơn, lý thuyết là “lời phát biểu về những mối quan hệ có thể xảy ra giữa một tập hợp các khái niệm được khái quát” (Martin 2007, trang 54). Vì vậy, các lý thuyết có vai trò quan trọng, làm nền tảng để các tác giả xây dựng mô hình trong các nghiên cứu trước. Tổng kết lý thuyết cho thấy có năm lý thuyết nền chính. Các lý thuyết được sử dụng gồm: (1) thuyết đánh giá mang tính nhận thức của cảm xúc (Cognitive Appraisal of Emotions Theory); (2) thuyết qui kết (Attribution Theory);
(3) thuyết bất hòa mang tính nhận thức (Cognitive Dissonance Theory); (4) thuyết bản sắc xã hội (Social Identity Theory) và (5) thuyết hiệu ứng bàng quan và phân tán trách nhiệm (Bystander Effect and Diffusion of Responsibility Theory).
Tập hợp năm lý thuyết nền trên hình thành khung lý thuyết nền được sử dụng cho luận án này. Khung lý thuyết nền sử dụng cho luận án được minh hoạ qua hình 2.1 như sau:
Trong khung lý thuyết nền trên, thuyết đánh giá mang tính nhận thức của cảm xúc là lý thuyết chính, quan trọng nhất đóng vai trò nền tảng giải thích cho mối quan hệ giữa đánh giá mang tính nhận thức, cảm xúc và hành vi tẩy chay. Luận điểm chính của từng lý thuyết được trình bày ở nội dung sau.
Để lại một bình luận