Hiện nay, lãi suất VNIBOR do Reuteur cung cấp chưa phản ánh sát nhu cầu và biến động của thị trường; bởi vậy, việc xây dựng một lãi suất VNIBOR chuẩn phản (lãi suất chào vay) ánh đúng cung cầu thị trường, có độ tham chiếu cao cần được nghiên cứu và triển khai sớm, tạo cơ sở cho sự phát triển của các sản phẩm và hình thức giao dịch mới trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam.
Theo đó, trước mắt cần xây dựng một khuôn khổ lãi suất chuẩn cho VNIBOR, bao gồm các vấn đề sau:
(i) Cơ quan chịu trách nhiệm về khuôn khổ lãi suất chuẩn cho VNIBOR: kinh nghiệm các nước cho thấy không nhất thiết phải do NHTW mà có thể do một Hiệp hội tổ chức ngành nghề có uy tín và trách nhiệm trên thị trường thực hiện, chẳng hạn như Hiệp hội Ngân hàng.
(ii) Nội dung thiết yếu của khuôn khổ lãi suất chuẩn cho VNIBOR: Dù do bất cứ tổ chức nào đứng ra chịu trách nhiệm, để đảm bảo tính minh bạch, chính xác và tính kỷ luật, khuôn khổ lãi suất chuẩn cho VNIBOR cần phải làm rõ các vấn đề sau:
Một là, các quy định về cơ chế quản trị và kiểm soát hoạt động xây dựng VNIBOR:
Các quy định này sẽ bao gồm các nội dung về cơ cấu tổ chức, thành viên và cơ chế hoạt động cho các ngân hàng thành viên tham gia vào xây dựng hệ thống lãi suất VNIBOR (gọi tắt là các ngân hàng VNIBOR) do cơ quan chịu trách nhiệm về khuôn khổ VNIBOR quyết định. Cụ thể:
(1) Thành lập Ủy ban chuyên trách về VNIBOR
Trong cơ quan chịu trách nhiệm về VNIBOR, cần thành lập một Ủy ban chuyên trách về VNIBOR. Chẳng hạn như ở Thụy Điển, Hiệp hội Ngân hàng Thụy Điển, là đơn vị chịu trách nhiệm về STIBOR, sẽ thành lập một Ủy Ban Stibor. Về cơ cấu tổ chức, Ủy bản sẽ bao gồm đại diện từ các ngân hàng Stibor (các ngân hàng tham gia xây dựng lãi suất Stibor) và đại diện của Hiệp hội. Việc lựa chọn, quy trình lựa chọn đại diện lựa chọn đại diện hợp lệ của các ngân hàng tham gia và nhiệm kỳ của Ủy ban cũng phải được cơ quan chịu trách nhiệm về VNIBOR soạn thảo và công bố công khai.
Ngoài ra, NHTW (nếu không phải là cơ quan chịu trách nhiệm về VNIBOR) và bộ phận tính toán chỉ số VNIBOR có quyền chỉ định các giám sát viên vào Ủy ban. Các giám sát viên này có quyền tham gia vào các cuộc họp của Ủy ban. Mọi thông tin mà Ủy ban đưa ra về từng ngân hàng tham gia vào Ủy ban được coi là bảo mật.
(2) Nhiệm vụ của Ủy ban
Xây dựng các quy định về cách thức báo cáo và tính toán VNIBOR, quy định về quy định về quản trị nội bộ trong các ngân hàng VNIBOR; đề xuất những thay đổi cho khuôn khổ, đảm bảo tính minh bạch cho quá trình xây dựng VNIBOR, đề xuất ngân hàng mới tham gia vào hệ thống ngân hàng VNIBOR, hoặc thực hiện việc loại trừ một ngân hàng ra khỏi hệ thống thành viên do vi phạm các điều khoản mà khuôn khổ đưa ra; báo cáo hoạt động xây dựng VNIBOR.
(3) Cơ chế ra quyết định của Ủy ban
Sự đồng thuận của tất cả các thành viên hay cơ chế quá bán đối với tất cả các quyết định hay hình thức quyết định khác nhau đối với từng loại hình quyết định.
(4) Điều kiện để trở thành một ngân hàng VNIBOR
Ngân hàng phải có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đáng kể đến mức lãi suất VNIBOR thông qua các hoạt động của mình và phải hoạt động tích cực, năng động trên TTTT.
Ngân hàng phải có đủ năng lực về nhân sự và hệ thống để đảm bảo báo cáo hàng ngày mức lãi suất của mình.
(5) Vấn đề kiểm soát
NHTW và Ủy ban VNIBOR phải có quyền tiếp cận thông tin về việc báo cáo lãi suất của các ngân hàng VNIBOR, cơ sở để đưa ra các mức lãi suất này và các thông tin quan trọng khác đối với việc hình thành VNIBOR.
Hai là, các quy định về báo cáo và tính toán VNIBOR:
Quy trình hành động và thời điểm thông báo lãi suất của các ngân hàng: Điều này có tính ảnh hưởng tới độ chính xác cũng như mức ảnh hưởng của VNIBOR trên thị trường. Theo cách thức của các ngân hàng Thụy Điển, quy trình này bao gồm các khoảng thời gian hành động, mỗi khoảng thời gian kéo dài 5 phút. Năm phút đầu tiên, các ngân hàng tự thông báo lãi suất của mình và trong khoảng thời gian này, không một ngân hàng nào biết thông tin về lãi suất của ngân hàng nào; 5 phút tiếp theo, các ngân hàng thành viên được biết mức lãi suất của nhau và thực hiện các giao dịch với nhau trước tiên.
Cách tính toán: khi có đầy đủ thông tin từ các ngân hàng thành viên, khi không có đủ thông tin phải quy định mức tối thiểu số thành viên thực hiện báo cáo để tiến hành tính toán. Theo đó, phải quy định cách tính toán trong mỗi trường hợp để đảm bảo sự xuyên suốt của VNIBOR.
Ba là, các quy định về quản trị nội bộ trong các ngân hàng thành viên tham gia vào xây dựng VNIBOR:
Để đảm bảo việc tính toán lãi suất VNIBOR có tính kỷ luật và tham chiếu trên thị trường, tránh tình trạng lãi suất VNIBOR không sát với lãi suất giao dịch thực tế hiện nay, mỗi một ngân hàng thành viên phải quy định nội bộ về các vấn đề liên quan đến lãi suất công bố. Tham khảo về vấn đề này tại một số quốc gia, các quy định này phải bao gồm được một số điểm chung sau:
– Người quyết định mô hình tính toán mà ngân hàng sử dụng để đưa ra mức lãi suất để báo cáo. Mô hình này sẽ giải thích vì sao mức lãi suất này được lựa chọn;
– Người chịu trách nhiệm và cách thức lập và lưu trữ hàng ngày các văn bản về lãi suất tham gia tính toán VNIBOR. Các văn bản này phải bao gồm các nội dung về: mức lãi suất báo cáo, người chịu trách nhiệm báo cáo, những thay đổi có thể có đối với mô hình/cách thức đưa ra quyết định về lãi suất;
– Cách thức lưu trữ các mức lãi suất đã báo cáo, các thông tin về các giao dịch hình thành nên nền tảng cho các lãi suất báo cáo và xuất trình cho các cơ quan kiểm soát và kiểm toán;
– Cách thức đảm bảo việc báo cáo lãi suất được đảm bảo thực hiện hàng ngày;
– Cách thức đảm bảo người chịu trách nhiệm báo cáo lãi suất không chịu một chỉ thị nào từ người trong hay ngoài ngân hàng liên quan đến lãi suất hay trả lời bất cứ câu hỏi nào liên quan đến lãi suất trước khi thực hiện việc báo cáo lãi suất lên Ủy ban.
Để lại một bình luận