III) Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế
Hậu quả của cuộc kinh tế chu kỳ làm phá hoại lực lượng sản xuất và làm rối loạn lĩnh vực lưu thông. Mỗi lần khủng hoảng đều làm cho sản xuất và lưu thông của các nước tư bản bị giảm sút. Xí nghiệp bị đình đốn đóng cửa quy mô sản xuất bị thu hẹp lại ,giá cả thị trường bị giảm sút mạnh, khối lượng mậu dịch trong và ngoài nước bị thu hẹp lại, nhiêu ngân hàng phải đóng cửa, giá cổ phiếu hạ thấp.
Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản là điều dẫn tới độc quyền. Tích tụ là yêu cầu căn bản của việc mở rộng sản xuất ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển sản xuất của tư bản chủ nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản tập trung.
Các nhà tư bản hình thành trong xã hội có vai trò to lớn trong sự phát triển sản xuất.
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng do đó nền sản xuất xã hội hoá cao làm cho hâụ quả tư bản chủ nghĩa càng sâu sắc. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ngày càng gay gắt. Trong khi quần chúng lao động lâm vào cảnh đói nghèo thì các nhà tư bản tiêu huỷ hàng đống của cải khổng lồ bao gồm cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
Ví dụ: cuộc khủng hoảng 1929-1933 người ta đã phá huỷ 92 lò nấu sắt ở Mỹ, 72 lò ở Anh, 28 lò ở Đức, 10 lò ở Pháp. Trọng tải ở biển bị phá huỷ với 6,5 triệu tấn.
Trong khi đó mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự bóc lột và đè nén tổ chức độc quyền làm cho giai cấp công nhân vô cùng điêu đứng. Chiến tranh và khủng hoảng kinh tế lại không ngừng reo tai hoạ lên đầu họ. Vì vậy giai cấp công nhân ngày càng giác ngộ, đoàn kết đấu tranh chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất đã vượt quá khuôn khổ của quan hệ sản xuất, đó là sự nổi dậy của lực lượng sản xuất chống lại quan hệ sản xuất.
IV) Cách khắc phục:
Trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất quyết định tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất, khi nó phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất thì nó giúp cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khi nó không phù hợp thì nó biến thành trở ngại của lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất con người không ngừng thu thêm kinh nghiệm sản xuất, không ngừng cải tiến công cụ, cải tiến kĩ thuật. Lực luợng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đó vượt ra ngoài khuôn khổ của quan hệ sản xuất cho nên quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất lượng sản xuất.
Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa người bán và người mua, những người sản xuất và những người tiêu dùng là những quan hệ có vai trò quan trọng trong kinh tế hàng hoá. Không phải chỉ ở giá cả ảnh hưởng tới cung cầu, mà ảnh hưởng tới việc xác định giá cả trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu người bán phải giảm giá cả, giá cả có thể thấp hơn giá trị.
Giữa cung và cầu về hàng hoá phải có sự thích ứng cần thiết khách quan về hình thái hiện vật và hình thái giá trị. Do vậy quan hệ cung cầu điều tiết được sự chênh lệch giữa giá cả thị truờng và giá trị thị trường. Sự lên xuống của giá cả thị trường lại điều tiết quan hệ cung cầu, làm cho nền sản xuất có được những tỉ lệ tương đối.
Trước khi đạt tới sự tương đối thì xã hội lãng phi rất nhiều sức lực và của cải. Vì vậy xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết ,định hướng, một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường.
Các nhà tư bản ra sức tìm lối thoát băng cách giảm bớt chi phí sản xuất dù có bán hàng hoá với giá thấp vẫn thu được lợi nhuận. Họ ra sức tăng cường bóc lột công nhân lợi dụng tình hình thất nghiệp để hạ thấp tiền lương, kéo dài ngày lao động nâng cao cường độ lao động. Biện pháp quan trọng là áp dụng kỹ thuật để cải tiến bằng cách đổi mới hàng loạt mày móc thiết bị.
V)Thực tiễn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước định hướng xã hội chủ nghĩa, may mắn không xảy ra cuộc khủng khoảng kinh tế chu kì như các nước phát triển trên thế giới. Nhưng do nước ta đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nặng nề của cuộc chiến tranh. Nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, công nghiệp nhỏ bé và lạc hậu, các ngành dịch vụ chưa phát triển. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nứơc ta đã phát huy vốn đầu tư nước ngoài, công nghiệp hoá hiện đại hoá, khuyến khích pháp triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, xây dựng cơ sở vật chất –kỹ thuật. Khi thay đổi cũng đạt một số thành tựu như : Việt Nam từ một nước nhập khẩu gạo đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, cả nước có gần 5300 công trình thuỷ lợi, trong đó có khoảng 3000 trạm bơm. Các công trình đã góp phần vào việc tưới cho 4,8triệu ha. Trong công nghiệp cả nước có 2821 xí nghiểp trung ương, địa phương, 590.246 cơ sở xản xuất ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó nhà nuớc cũng quan tâm đến mạng lưới giao thông đi nhiều nơi từ Bắc tới Nam, từ đồng bằng lên trung du và miền núi.
Để lại một bình luận