Doanh nghiệp có thể huy động nhiều nguồn vốn khác nhau để tài trợ cho hoạt động kinh doanh: lợi nhuận giữ lại, vốn cổ phần và vay nợ. CTV của doanh nghiệp cho thấy cách thức, mức độ và cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp đó. Tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về CTV. Theo Ross và ctg (2003), Brigham và Houston (2009), CTV của doanh nghiệp hay còn gọi là đòn bẩy tài chính là sự kết hợp giữa việc sử dụng nợ và VCSH theo một tỷ lệ nhất định để tài trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Mcguigan và ctg (2006), Brealey và ctg (2008) định nghĩa, CTV là sự kết hợp giữa NNH thường xuyên, NDH, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường được sử dụng để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, theo Paramasvan và Subramania (2008), CTV là sự kết hợp giữa việc sử dụng NDH và VCSH (bao gồm vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường).
Tại Việt Nam, theo Trần Ngọc Thơ và ctg (2013), CTV là sự kết hợp của NNH thường xuyên, NDH, vốn cổ phần ưu đãi và cổ phần thường được sử dụng để tài trợ cho quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Nguyễn Minh Kiều (2014) cho rằng, CTV là quan hệ tỷ trọng giữa nợ và VCSH trong TNV của doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Các định nghĩa nêu trên cho thấy, có sự khác biệt giữa các quan điểm về CTV. Tuy nhiên, cần một quan điểm thống nhất về CTV phù hợp với đặc thù các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam. Theo kết quả thống kê từ BCTC của 82 CTCP niêm yết tại Việt Nam, các doanh nghiệp này sử dụng chủ yếu là NNH, chiếm 62,40%trong tổng nợ và chiếm 31,87% tổng tài sản (TTS). Như vậy, đối với các doanh nghiệp Việt Nam, NNH là nguồn vốn chiếm tỷ trọng tương đối cao trong cơ cấu nợ cũng như nguồn vốn kinh doanh. Do đó, khi nghiên cứu về CTV tại các doanh nghiệp Việt Nam, nếu theo quan điểm của Paramasvan và Subramania (2008) CTV là sự kết hợp giữa việc sử dụng NDH và VCSH thì vẫn chưa thể lột tả hết tình trạng sử dụng nợ của doanh nghiệp vì cần đánh giá trên cơ sở tổng nợ, bao gồm NNH và NDH.
Vì vậy, sử dụng khái niệm CTV theo Ross và ctg (2003), Mcguigan và ctg (2006), Brealey và ctg (2008), Brigham và Houston (2009), Nguyễn Minh Kiều (2014) và điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp tại Việt Nam. Như vậy, CTV là sự kết hợp giữa VCSH và nợ phải trả (bao gồm NNH và NDH) mà một doanh nghiệp sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của mình. Các nguồn vốn tài trợ cho một doanh nghiệp được chia thành hai loại, đó là nợ phải trả và VCSH.
Để lại một bình luận