1. Rủi ro vỡ nợ
Rủi ro vỡ nợ còn được gọi là rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi người phát hành các chứng khoán không thể thực hiện thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc cho người mua các chứng khoán.
Rủi ro vỡ nợ là hậu quả của 2 dạng rủi ro: rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh doanh là rủi do xảy ra khi dòng tiền mặt thu vào của người phát hành bị suy giảm do điều kiện kinh doanh trở nên khó khăn. Hậu quả là người phát hành mất khả năng thanh toán các khoản chi phí hoạt động như thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ cho người cung cấp, trả lương cho công nhân. Rủi ro tài chính là rủi ro xảy ra khi dòng tiền mặt thu vào của người phát hành không đủ để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính (trả nợ và trả lãi). Thông thường ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, rủi ro vỡ nợ thường do các công ty dịch vụ của nhà đầu tư, các công ty xếp loại tín nhiệm xác định và xếp loại.
2. Rủi ro lạm phát
Là một hiện tượng phổ biến trong mọi nền kinh tế tiền tệ, lạm phát tác động đến mọi ngõ ngách trong đời sống kinh tế. Trong lĩnh vực đầu tư và các tài sản tài chính, lạm phát “ăn mòn” giá trị của tài sản, làm cho mức sinh lời danh nghĩa có sự khác biệt so với mức sinh lời thật. Khi mức sinh lời thực tế – mức sinh lời đã được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát – âm, người ta nói đã có rủi ro lạm phát hay rủi ro sức mua trên công cụ tài chính đó.
3. Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá hối đoái hay rủi ro tiền tệ xảy ra khi nhà đầu tư trong nước mở rộng hoạt động kinh doanh chứng khoán trên các thị trường quốc tế. Bởi vì giá trị của luồng tiền mặt thu vào do đầu tư vào chứng khoán hoàn toàn lệ thuộc vào tỷ giá hối đoái giữa 2 đồng tiền ở 2 thời điểm thanh toán nên trong thực tế, loại rủi ro này rất khó xác định.
4. Rủi ro giá cả
Rủi ro giá cả phát sinh từ thực tế là người đầu tư không thể biết chắc chắn giá thị trường của các chứng khoán trong tổ hợp các chứng khoán đầu tư trong tương lai sẽ là bao nhiêu. Vì vậy khi buộc phải bán một chứng khoán (hoặc toàn bộ chứng khoán trong tổ hợp các chứng khoán) để thực hiện một mục đích đầu tư nhất định, giá trị của các chứng khoán có thể bị hạ thấp. Rủi ro này được gọi là rủi ro giá cả. Ví dụ, giá định một định chế tài chính có một tổ hợp các chứng khoán đầu tư có giá trị thị trường là 200 triệu đồng và định chế tài chính ấy phải đáp ứng một nghĩa vụ trả nợ 200 triệu trong 2 năm tới. Định chế tài chính này phải đương đầu với rủi ro là, trong 2 năm sau, khi phải bán tổ hợp các chứng khoán đầu tư để trả nợ nói trên, giá thị trường của tổ hợp các chứng khoán đầu tư có thể ít hơn 200 triệu.
Trong các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán, rủi ro giá cả là rủi ro chủ yếu mà người đầu tư thường gặp phải khi đầu tư vào các cổ phiếu và trái phiếu. Đối với cổ phiếu, rủi ro giá cả ở các loại cổ phiếu thường thay đổi về lãi suất sẽ xuất hiện khi có sự biến động chung của thị trường cổ phiếu. Tương tự, đối với trái phiếu, rủi ro giá cả của trái phiếu sẽ nảy sinh khi có biến động về lãi suất bởi vì giữa giá trái khoán hiện thời và lãi suất có mối quan hệ nghịch, khi lãi suất tăng thì giá của trái khoán giảm (và ngược lại).
5. Rủi ro tái đầu tư
Rủi ro tái đầu tư là loại rủi ro khi số tiền thu được trong tương lai từ các chứng khoán sẽ phải dùng để đầu tư lại ở các loại chứng khoán khác ở mức lãi suất thấp hơn. Ví dụ, giả sử một nhà đầu tư mong đợi nhận 50 triệu đồng từ loại trái phiếu có kỳ hạn 4 tháng. Rủi ro mà nhà đầu tư này phải đương đầu là lãi suất đến 4 tháng sau sẽ giảm, vì vậy nhà đầu tư buộc phải đầu tư lại 50 triệu đồng này vào trái khoán khác ở mức lãi suất thấp hơn.
Dễ dàng thấy rằng, đối với tổ hợp các trái khoán, rủi ro giá cả và rủi ro tái đầu tư là trái ngượi với nhau. Ví dụ, rủi ro giá cả là rủi ro khi lãi suất tăng dần đến sự giảm giá của tổ hợp các trái khoán; ngược lại rủi ro tái đầu tư là rủi ro xảy ra khi lãi suất giảm dần đến mọi luồng tiền mặt thu được về sử dụng để đầu tư lại tất nhiên phải ở mức lãi suất thấp hơn. Rủi ro tái đầu tư cũng thường xảy ra đối với tổ hợp các cổ phiếu. Rủi ro này phát sinh khi giá trị của các cổ phiếu tăng, nhà đầu tư sẽ phải trả ở một mức giá cao hơn để mua các cổ phiếu từ các luồng thu nhập sẽ nhận trong tương lai.
6. Rủi ro do trái phiếu bị chuộc lại sớm
Loại rủi ro này liên quan đến những loại trái phiếu có thể chuộc lại. Đây là loại trái khoán có chứa một điều khoản gọi là điều khoản mua lại mà theo đó người phát hành được quyền thanh toán nợ, toàn bộ hay một phần, trước ngày đến hạn nếu lãi suất trên thị trường giảm thấp hơn mức lãi suất tính trên phiếu nhận lãi. Xét theo góc độ của người đầu tư, điều khoản này làm người giữ trái phiếu có hai bất lợi. Một là, các khoản tiền thu được từ các trái khoán có thể chuộc lại là không chắc chắn. Hai là, nhà đầu tư sẽ phải đương đầu với loại rủi ro tái đầu tư vì sẽ phải đầu tư số tiền nhận lại ở mức lãi suất thấp hơn.
Như vậy, rủi ro do trái phiếu bị chuộc lại sớm là tổ hợp của các rủi ro về sự không chắc chắn của dòng tiền mặt thu vào và rủi ro tái đầu tư. Rủi ro này lan toả khắp trong tổ hợp trái khoán đến nỗi nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sau rủi ro giá cả, đây là loại rủi ro cần được chú ý đúng mức.
7. Rủi ro do sức lưu chuyển kém
Rủi ro do sức lưu chuyển kém phát sinh khi có sự khó khăn trong việc bán một tài sản tài chính ở một mức giá thích hợp. Có thể lượng hoá mức rủi ro do sức lưu chuyển kém là sự chênh lệch giữa giá trị thực của tài sản tài chính và giá có thể bán được trừ chi phí hoa hồng môi giơí. Đối với các tài sản tài chính được mua bán trên thị trường, thước đo quan trọng nhất cho tính lưu chuyển là độ lớn độ giữa giá đặt mua và giá chào bán được nêu ra cùng với tiền hoa hồng. Biên độ giữa giá hỏi mua và giá chào bán càng lớn, chi phí hoa hồng càng lớn thì rủi ro sức lưu chuyển càng cao.
Như vậy, rủi ro có liên quan đến việc đầu tư vào các tài sản tài chính là rất nhiều và rất đa dạng. Hiểu rõ và tiên liệu trước các rủi ro có thể có là điều kiện có ý nghĩa quan trọng khi quyết định lựa chọn một tổ hợp các chứng khoán an toàn và kinh tế.
Để lại một bình luận