Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp trong chấp trong KDTM mà không cần đến vai trò của người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của phương thức thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thống nhất thoả thuận đẻ tự giải quyết các bất đồng.
Thương lượng là phương thức tốt nhất để giải quyết tranh chấp trong KDTM vì nó đáp ứng được những yêu cầu đã nêu trên. Tự thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp tự nguyện chọn lựa trươc tiên và trong thực tiễn, phần lớn tranh chấp trong kinh doanh được giải quyết bằng phương thức này.
Phương thức này đã từ lâu được giới thương nhân ưa chuộng vì nó đơn giản lại không bị ràng buộc bởi các thủ tuc pháp lý phiền phức, ít tốn kém hơn và điều quan trọng, nó không làm phương hại đến quan hệ hơp tác vốn có giữa các bên trong kinh doanh cũng như giữ được bí mật kinh doanh của các bên.
Với những ưu điểm riêng của mình, phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng thương lượng đã trở thành phương thức phổ biến của các tập doàn kinh doanh lớn trên thế giới đạc biệt là các tập đoàn kinh doanhhoạt động trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng, bảo hiểm, chướng khoán… vì nó bảo vệ một cách có hiệu quả những bí mật trong kinh doanh của họ.
Bản chất của thương lượng được thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, phương thức thương lượng được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp tự gặp nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay ra phán quyết.
Hai là, quá trình thương lương của các bên cung không chịu sự ràng buộc của bất kỳ nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tinh khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mà không có bất kỳ quy đinh nào chi phối giải quyết tranh chấp KDTM bằng phương thức thương lượng.
Ba là, việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thoả thuận của các bên trong quá trình thương lượng.
Thương lượng đòi hỏi trước hết các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác và phải có đầy đủ những kiến thức, am hiểu về chuyên môn và pháp lý. Thương lượng thật sự đã trở thành quá trình trao đổi, bày tỏ ý chí giữa các bên để tìm giải pháp thích hợp nhất.
Do vậy, trong thương lượng, các bên tiến hành bàn bạc, trao đổi ý kiển, thoả thuận thông qua “hành vi giao dịch” cần phải đảm bảo các điều kiện pháp lý đặt ra. Đó là: chế định đại diện, chế định uỷ quyền, giao dịch dân sự, năng lực hành vi…
Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thực chất được thực hiện bởi cơ chế nội bộ (cơ chế tự giải quyết) và hoàn toàn xuất phát từ cơ chế tự giải quyết của các bên tranh chấp mà không có sự can thiệp củ bất kỳ cơ quan nhà nước hoặc của bất kỳ người thứ ba nào. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức thương lượng là sự thể hiện quyền tự do thoả thuận, tự do định đoạt của các bên tranh chấp. Các bên tự đề xuất các giải pháp và thỏa hiệp với nhau theo trình tự thủ tục tự chọn để giải quyết các bất đồng phát sinh mà không bắt buộc phải tuân thao một thủ tục pháp lý nào. Do thể thức đơn giản, ít phiền hà, hiệu quả, ít tốn kém, không gây ra ảnh hướng xấu trong quan hệ kinh doanh giữa các bên sau tranh chấp mà thương lượng luôn là phương thức ưa chuộng, phổ biến, được các thương nhân ưu tiên lựa chọn trước khi tìm đến các giải pháp khác để giải quyết các tranh chấp KDTM. Quá trình thương lượng đẻ giải quyết các tranh chấp KDTM có thể được tiến hành bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, thương lượng gián tiếp và kết hợp thương lượng trực tiếp với thương lượng gián tiếp.
* Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng là thuân tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tồn kém. Mặt khác giải quyết tranh chấp KDTM bằng thương lượng còn bảo vệ được uy tín của các bên tranh chấp cũng như bí mật trong kinh doanh của các nhà kinh doanh. Nếu thương lương thành công không những các bên đã loại bỏ được bất đồng phát sinh mà mức độ phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tă cương sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai.
* Bên cạnh nhưng ưu điểm thì phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng thương lượng cũng có những hạn chế nhất định. Thương lương thành công hay không thành công tuỳ thuộc và sự hiểu biết và thái độ thiện chí của các bên tranh chấp. Khi mà các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vưc đang tranh chấp, không
nhận thức được vị thế của mình về khả năng thắng thua, thiếu sự thiện chí trung thực trong quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả thương lương thương bế tắc.
Ngoài ra, kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc . Kết quả thương lượng phụ thuộc vào sự tự nguyên của các bên phải thi hành. Nếu một bên không tự nguyên thi hành thì kết quả thương lượng cững chỉ tồn tại trên giấy mà không có cơ chế trưc tiếp nào bắt buộc thi hành.
Nhưng hạn chế này đễ bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp KDTM. Nhiều trường hợp do thiếu sự thiện chí mà đã tìm mọi cách trì hoãn kéo dài vụ tranh chấp, nhất là khi thời hiệu khởi kiện không còn nhiều.
Hoà giải
Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp KDTM mà trong đó các bên trong đó các bên trong quá trình thương lượng với nhau có sụ tham gia của các bên thứ ba độc lập do hai bên cung chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giai quyết xung đột bất đồng để chấm dứt các tranh chấp các tranh chấp phát sinh giữa các bên tham gia quan hệ.
Hoà giải là giải pháp mang tính tự nguyện, tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hoà giải phải có vị trí độc lập đối với các bên. Điều đó thể hiện rõ bên thứ ba không ở vị trí xung đột lợi ích với các bên hoặc không có những lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong các bểntong các vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba tham gia làm trung gian hoà giải thường là những cá nhân, tổ chúc có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến các vụ việc phát sinh. Công việc của bên thứ ba là; xem xét, phân tích, đánh giá và dưa ra những ý kiến, nhận định , bình luận về chguyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ để các bên tham khảo lựa chọn và quyết định.
Bản chất của hoà giải được thể hiện qua những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong KDTM bằng phương pháp hoà giải đã có sụ hiện diện của bên thứ ba (do các bên lựa chọn) làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp.
Điểm khác biệt cơ bản giữa hoà giải và thương lượng là trong hoà giải luôn có sụ xuất hiện của người thứ ba tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp còn thương lượng là sự tự giải quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sụ hiện diện của người thứ ba.
Tuy nhiên, bên thứ ba làm trung gian hoà giải không có quyền quyết định hay áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh chấp. Quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên tranh chấp khi họ thống nhất được ý chí với nhau về giải quyết vụ tranh chấp trên cơ sở hướng dẫn, trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hoà giải.
Tuy cùng có sụ tham gia của người thứ ba vào quá trình giải quyết tranh chấp nhưng hoà giải khác với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại trọng tài hay Tòa án bởi vai trò của người thứ ba. Trong tài hay Tòa án với vai trò là người thứ ba tham gia vào giải quyết vụ tranh chấp lại có thẩm quyền ra phán quyết để ràng buộc các bên tranh chấp.
Thứ hai, quá trình hoà giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hoà giải.
Cũng giống như thương lượng, pháp luật hiện hành của Việt Nam, không có quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hoà giải ngoài các quy định có tính chất ghi nhận thương lương, hoà giải là những phương thức giải quyết tranh chấp được các bên ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh.
Thứ ba: kết quả hoà giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sụ tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hoà giải.
Cũng giống như thương lượng giải quyết tranh chấp bằng hoà giải thực chất vẫn được thưc hiện bởi cơ chế tự giải quyết và hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên tranh chấp.
Để tiến hành hoà giải đạt hiệu quả mong muốn, thông thương các bên tranh chấp cần tiền hành các bước sau:
Các bên tranh chấp trao đổi thông tin, tài liệu những vấ đề có liên quan đẻ làm rõ yêu cầu cũng như khả năng, vị thế của mỗi bên (hoặc các bên) làm trung gian hoà giải (hội đồng định giá, giám định viên…) nếu các bên chưa có thoả thuận hoặc mới có thoả thuận mang tính nguyên tắc về trung gian hoà giải.
Các bên có thể xác định một thủ tục (quy trình) tiến hành hoà giải qua trung gian.
Các bên trình bày ý kiến, quan đển của mình về nội dungvụ tranh chấp, lắng nge ý kiến của người khác và đề xuất phương án giải quyết tranh chấp.
Người trung gian hoà giải xem xét, phân tích đánh giá các tình tiết của vụ việc, làm sang tỏ vị thế của các bên tranh chấp. Khi cầ thiết người trung gian có thể gặp gỡ, trao đổi riêng với các bên để phân tích thuyết phục các bên. Các ý kiến, nhận xét và giải pháp của người trung gian chỉ có tính chất khuyến nghị, tham vấn đối với các bên tranh chấp.
Trên cơ sở nhưng phân tích đánh giá và khuyến nghị của người trung gian hoà giải về các giải pháp cầ lụa chọn, nếu các bên thoả thuận được với nhau về phương án giải quyết tranh chấp thì nội dung sự thoả thuận phải được ghi nhận bằng văn bản có đầy đủ chũ ký của đại diện các bên và người trung gian hoà giải. Văn bản thoả thuận này có giái trị rang buộc các bên và các bên phải tôn trọng, tự nguyện thực hiện cam kết.
* Giải quyết tranh chấp KDTM bằng hoà giải cũng có những ưu điểm như thương lượng bởi tính đơn giản thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bên cạnh đó thì hoà giải còn có ưu điểm vượt trội được mang lại bởi có sự tham gia của người thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp. Người thứ ba thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hieeur lĩnh vực và vắn đề đang tranh chấp. Khi hiểu rõ được nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh mâu thuẫn cũng như quan điểm nhận thức của các bên, họ sẽ biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình dàm phán để lọai trừ tranh chấp.
Ngoài ra, kết quả hoà giải được ghi nhận và chứng kiến của bên thứ ba. Nên mức độ tự nguyên thực hiện của các bên cung cao hơn so với phương thức thương lượng.
* Bên cạnh đó thì hoà giải cũng có những hạn chế bởi nền tảng của hoà giải vẫn được quyết định trên cơ sở tự nguyện thi hành của các bên. Bởi vậy, dù có sự trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hoà giải mà một bên không trung thực, thiếu thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán thì hoà giải cũng khó đạt được kết quả cao. Bên cạnh đó, thì trong quá trình hoà giải các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin cho người thứ ba về hoạt động kinh doanh của mỗi bên liên quan đến vụ tranh chấp nên uy tín cũng như bí mặt kinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hưởng. Cũng như chi phí bỏ ra cho khoản dịch vụ phí cho người thứ ba làm trung gian hoà giải.
Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hinh thức, đó là trọng tài vụ việc và trọng tài thương trực.
Trọng tài vụ việc: là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua đặc trưng sau đây;
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thương trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
So với trọng tài thường trực trọng tài vụ việc có một số ưu thế sau:
Có thể giải quyết một cách nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn kém, bởi xét cho cùng trọng tài vụ việc vẵn chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp.
Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có như hình thức trọng tài thường trực mà có thể lựa chọn bất kỳ trọng tài viên nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất kỳ trung tâm trọng tài nào.
Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Trọng tài thường trực: Theo pháp luật Việt Nam trọng tài thường trực dưới dạng các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sang kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ không phải được thành lập bởi nhà nước. Hoạt động của trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải. Chứ không được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước. Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực mà nhân danh người thứ ba độc lập phán quyết.
Là tổ chức phi chính phủ nhưng các trung tâm trọng tài vẵn luôn đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản lý đối với mọi mặt của đồi sống xã hội. Nhà nước quản lý đối với các trung tâm trọng tài thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài. Việc quản lý của nhà nươc còn được thực hiện thông qua hoạt động quản lý của hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp,thay đổi, bổ sung, hay thu hồi giấy phếp thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài…
Trong quá trình hoạt động cảc trung tâm trọng tài cũng cần có sụ hỗ trợ của nhà nước trên nhiều phương diện. Như: hỗ trợ chỉ định, thay đổi trọng tài viên, hỗ trợ trong việc xem xét lại quyết định của trọng tài, hỗ trợ trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ trong việc huỷ hay không huỷ quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cương chế thi hành quyết định trọng tài…
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
Trung tâm trọng tài là tổ chức thoả mãn các điều kiện của pháp nhân, bao gồm:
Được thành lập hợp pháp;
Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiêm bằng tài sản đó;
Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lầp và bình đẳng với các trung tân trọng tài khác. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới như hệ thống cơ quan tài phán. Nên đặc thù của tố tụng trọng tài là áp dụng nguyên tắc xét xử một lần.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trong tài viên của trung tâm.
Thứ tư, mỗi trung tân trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm
Tòa án
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp KDTM tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Ở các nước khác nhau, có thể có sự khác nhau trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp KDTM. Một số nước (Mỹ, Nhật, Hà lan…) trao thẩm quyền xét xử mọi tranh chấp, trong đó có các tranh chấp trong thương mại cho Tòa án thường (Tòa án dân sự). Một số nước khác lại trao thẩm quyền xét xử tranh chấp thương mại cho toà thương mại – Toà chuyên trách trong cơ quan tư pháp (Đức, Pháp, Áo, Bỉ…) Các toà thương mại chỉ xét xử sơ thẩm, nếu có kháng án sẽ được đưa ra xét xử tại toà thượng thẩm dân sự. Có nước thành lập hệ thống Tòa án độc lập gọi là Tòa án trọng tài để giải quyết tranh chấp như Cộnh hoà liên bang Nga.
Ở nước ta, tranh chấp thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xết xử của toà kinh tế- Toà chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Thẩm quyền của Tòa án về giải quyết các tranh chấp trong KDTM được pháp luật phân định theo cấp Tòa án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Để lại một bình luận