Các nghiên cứu điển hình của Lepoutre & Heene (2006); Hazoor muhammd sabir & cộng sự, (2012); Ülle Übius and Ruth Alas, (2014); Lành, Trâm, (2016) đã phân tích: Lãnh đạo DN; Hoạch định chiến lược; Tài chính của DN; Văn hóa DN; Quy mô DN ảnh hưởng đến TNXH đối với NLĐ, quá trình thực hiện TNXH đối với NLĐ. DN có thể chủ động kiểm soát, điều chỉnh trực tiếp nhân tố chủ quan trong chủ trương, chính sách cũng như sự quan tâm của DN để TNXH đối với NLĐ, quá trình thực hiện TNXH đối với NLĐ đạt kết quả tối ưu với các nguồn lực của DN là hữu hạn.
Theo Labelle và Saint pierre (2010) lãnh đạo là nhân tố quyết định đến thực hiện TNXH đối với NLĐ. Bởi lẽ với các DN thì quyền hạn và nhiệm vụ của lãnh đạo là lớn nhất. Họ có sự hiểu biết về nội dung, quy trình, lợi ích của việc thực hiện TNXH đối với NLĐ. Mỗi một lãnh đạo có phong cách, quyết định lãnh đạo ảnh hưởng đến thực hiện TNXH đối với NLĐ. Bên cạnh đó, lãnh đạo chuyển đổi tạo ra những cái mới trên nền tảng những cái cũ bằng cách thay đổi các yếu tố căn bản trong hệ thống chính trị và văn hóa. Lãnh đạo chuyển đổi nhằm truyền cảm hứng cho NLĐ để họ làm việc tốt hơn. Do vậy, nghiên cứu theo khái niệm của Sumina Elizabeth Thomas, (2011): “Lãnh đạo DN là năng lực của cá nhân để truyền cảm hứng, để chia sẻ tầm nhìn lớn hơn và hoàn thành nhiệm vụ bằng một phương tiện nào đó”.
Các nhà nghiên cứu cho rằng hoạch định chiến lược tạo thuận lợi cho hoạt động quản lý để xác định các chiến lược đúng đắn và phù hợp với các nguồn lực của DN. Carroll (1984) cho rằng: “Hoạch định chiến lược là điều kiện cần thiết để thực hiện hóa TNXH đối với NLĐ. Bởi vì chính hoạch định chiến lược giúp DN có được thông tin để đánh giá được môi trường bên trong và bên ngoài của DN”. Như vậy, hoạch định chiến lược là xây dựng lộ trình để DN thực hiện những mục tiêu chiến lược đã được lựa chọn. Đây là những nỗ lực của DN trong việc xác định các ưu tiên, tập trung các nguồn lực, củng cố các hoạt động vận hành nhằm bảo đảm cho NLĐ của DN và các bên có liên quan cùng hướng đến những mục tiêu chung trong môi trường kinh doanh luôn biến động.
Tài chính đóng vai trò quan trọng, có phạm vi rộng lớn, hiện hữu trong các hoạt động của DN và thực hiện TNXH đối với NLĐ cũng không phải là ngoại lệ. Hầu hết các quyết định về thực hiện TNXH đối với NLĐ đều dựa trên tình hình tài chính của DN. Theo Nguyễn Văn Tấn (2007): “Tài chính DN là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động của nhằm góp phần đạt tới các mục tiêu của DN”. Để thực hiện tốt hoạt động thực hiện TNXH đối với NLĐ cần phải đầu tư một khoản kinh phí không hề nhỏ. Mặc dù nhiều khoản kinh phí nằm trong danh mục chi phí của DN nhưng để thực sự làm tốt TNXH thì nguồn lực tài chính của DN là một trong những yếu tố quan trọng. Các nghiên cứu thực nghiệm được tổng hợp bởi Lepoutre & Heene (2006), Adeyemo S.A et al (2013) cho tài chính DN ảnh hưởng đến thực hiện TNXH đối với NLĐ.
Žitkus và Junevičius (2007) cho rằng: “Văn hóa hầu hết thường diễn ra như là một phần cấu thành nên môi trường của DN”. Văn hóa cùng với sự phát triển của các yếu tố như: kinh tế, các yếu tố xã hội, công nghệ… ảnh hưởng đến quản lý DN.
Quy mô của DN chính là kích cỡ, là độ lớn của DN. Các DN từ khi thành lập đến khi phát triển có thể là cùng một quy mô, cũng có thể là mở mộng, tăng quy mô. Hiện nay, DN tồn tại dưới dạng DNVVN và DN có quy mô lớn. Trong đó, một số nghiên cứu tìm thấy một liên kết quan trọng, tích cực giữa quy mô DN và mức độ thực hiện TNXH đối với NLĐ. Những phát hiện này làm rõ ảnh hưởng của mối quan hệ giữa quy mô của DN và mức độ thực hiện TNXH đối với NLĐ.
Để lại một bình luận