Theo MacRae and Widle “Tiêu chí là công cụ đo lường các kết quả đạt được của mục tiêu. Vì vậy, việc lựa chọn tiêu chí nào sẽ được sử dụng trong quá trình phân tích phụ thuộc bản chất của vấn đề và mục tiêu của chính sách lựa chọn” [91]. Tiêu chí ĐGCS có ý nghĩa như bộ lọc thông tin, tạo ra những phán đoán giá trị cho mục tiêu đánh giá. Tùy thuộc vào đối tượng, mục tiêu, chủ thể đánh giá, chính sách có thể xây dựng, lựa chọn và sử dụng các tiêu chí khác nhau.
Các tiêu chí ĐGCS có tác dụng đo lường những giá trị, khả năng mà một chính sách hay chương trình có thể đem lại trong tương lai. Việc sử dụng các tiêu chí đánh giá công khai cho phép thiết lập các tiêu chuẩn rõ ràng, giữ cho việc phân tích chính sách được khách quan và trọng tâm. Tính hợp lý của các tiêu chí được lựa chọn để đánh giá phụ thuộc vào tính chất, nội dung của những vấn đề cụ thể mà chúng cần giải quyết.
Việc lựa chọn tiêu chí ĐGCS cần phải đáp ứng yêu cầu vừa là thước đo cụ thể của vấn đề chính sách được đề cập, vừa phản ánh được lợi ích của đa số các đối tượng trong xã hội và được họ chấp nhận. Các tiêu chí đánh giá chính sách phải đáp ứng được các yêu cầu về: Phù hợp với mục đích; mức độ thỏa đáng; độ tin cậy; dễ hiểu, dễ thực hiện; kịp thời; có khả năng đo lường; mức độ ảnh hưởng của chính sách; không trùng lắp, thừa các chỉ tiêu đánh giá, các chỉ tiêu đo lường các mặt khác nhau; khả năng chống chọi với những tác động phản kháng.
Trên thực tế, chính sách của Nhà nước nhằm mục đích giải quyết các vấn đề cụ thể trong cái tổng thể, có mối liên hệ với nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Vì thế, mục tiêu và các thước đo của những mục tiêu chính sách của Nhà nước rất đa dạng. Gắn với mục tiêu của Nhà nước có thể liệt kê ra nhiều tiêu chí như: tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính khả thi (về kinh tế, về chính trị, về hành chính), tính công bằng, tính hiệu suất, tính hợp hiến, tính thống nhất, tính minh bạch, tính thuận lợi, tính dân chủ.
Ví dụ tại Nhật Bản, để ĐGCS của Nhà nước, ba tiêu chí là tính hiệu lực, tính hiệu quả và tính kinh tế (còn gọi là 3E: Efficiency, Effectiveness và Economy) thường được sử dụng, trong khi tại Mỹ và một số nước khác chú trọng cả 3E và tính công bằng (Equality). Trong luận án, tác giả đề xuất sử dụng5 tiêu chí cho đánh giá chính sách kinh tế của Nhà nước như sau:
Tính hiệu lực: Hiệu lực của chính sách là khái niệm phản ánh tác dụng đích thực của một chính sách. Tính hiệu lực của chính sách được đo lường bằng mức độ mà hiệu quả của hoạt động đạt được mức mục tiêu. Các yếu tố phản ánh tiêu chí hiệu lực của chính sách là mức độ đáp ứng các nguồn lực, kỹ thuật, phương tiện để triển khai được chính sách và nhận được sự đồng thuận, chấp hành của đối tượng thực hiện chính sách. Trong tiêu chí hiệu lực, cần chú ý các chỉ tiêu như lợi ích của các bên liên quan, sự tương thích của nội dung chính sách, đảm bảo tính răn đe, buộc đối tượng tuân thủ, chấp hành và mức độ đạt được mục tiêu của chính sách. “Kết quả đánh giá tính hiệu lực của chính sách cho biết chính sách có thể được thực hiện trên thực tế hay không” [89].
Vì vậy, “Efficiency” mô tả tính hiệu lực của chính sách là khả năng có thể vận hành của chính sách được đánh giá thông qua tính toán về chi phí – lợi ích, khả năng ngân sách, nguồn lực và các điều kiện khác. Tính hiệu lực của chính sách đòi hỏi phải có sự tuân thủ, chấp hành đầy đủ các quy định thuộc về chính sách. Do đó, điều kiện cần và đủ để đo lường tính hiệu lực của một chính sách là những điều kiện kỹ thuật, nguồn lực, quy trình và đặc biệt là đảm bảo sự chấp hành chính sách của các đối tượng áp dụng để đạt được mục tiêu chính sách đề ra.
Tính hiệu lực của PACS có tác động trực tiếp đến những người ra quyết định. Bất kỳ PACS nào có dấu hiệu không có tính hiệu lực đều cần thiết phải dừng lại để xem xét, bổ sung các điều kiện hoặc chấm dứt hiệu lực của chính sách;
Tính hiệu quả: Trong các chính sách của Nhà nước, phần lớn chính sách đều sử dụng nguồn lực của đất nước, chi tiêu bằng tiền Nhà nước, chính vì vậy, xem xét tính hiệu quả của chính sách là xem xét điều mà Nhà nước thu được khi tiền ra (mua, đầu tư, trợ cấp) là cần thiết.
Tính hiệu quả của chính sách Nhà nước là độ lớn của kết quả thu được từ việc sử dụng nguồn lực cố định. Nói cách khác, tính hiệu quả của chính sách được khẳng định khi một PACS có khả năng làm cho các nguồn lực phát huy hiệu suất lớn nhất, trong sự so sánh với các PACS khác.
Nếu có nhiều PACS, cần phải so sánh lợi ích và chi phí giữa các phương án, cân nhắc để chọn cách giải quyết đạt được kết quả cao mà phí tổn là thấp nhất. Trong thực tế, một chính sách có hiệu quả thực sự khi người ta đã chọn đúng việc để làm và chọn đúng cách làm để tăng hiệu suất.
Tính hiệu quả của các PACS được đo lường thông qua việc cố gắng ước lượng khả năng đạt được mà những mục tiêu và mục đích đề ra. Nói cách khác, tính hiệu quả của PACS có thể được xem xét thông qua những đánh giá về sự thiết thực của mục tiêu và khả năng có thể làm cho các nguồn lực phát huy hiệu suất lớn nhất để đạt được mục tiêu.
Các chính sách của Nhà nước thường gắn với nhiều mục tiêu, mục đích khác nhau, có thể thành công trong một số mục tiêu này nhưng lại thất bại trong một số mục tiêu, mục đích khác. Một số mục tiêu chỉ có thể đạt được khi có đủ độ dài về thời gian cần thiết, điều đó có thể làm sai lệch các đánh giá mục tiêu ngắn hạn.
Tính công bằng (Equality) công khai, minh bạch của chính sách công: Không giống như chính sách của khu vực tư, chính sách công là công cụ thực thi mục tiêu chung của Nhà nước và xã hội. Nhiệm vụ của chính sách công biểu hiện ở tính trách nhiệm chung đối với cộng đồng xã hội. Ngoài tính hiệu lực, hiệu quả, kinh tế, chính sách công được lựa chọn phải thỏa mãn lợi ích của đa số người dân thuộc các tầng lớp, giai cấp khác nhau trong xã hội. Chính sách của Nhà nước nếu đảm bảo sự công bằng sẽ nhận được sự ủng hộ, đồng thuận cao, tạo động lực cho xã hội phát triển. Tính công bằng vì thế là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc khi xem xét khả năng tồn tại, giá trị của một chính sách công.
Hình thức biểu hiện của tính công bằng, công khai, minh bạch là tạo ra những tác động không thiên vị cho các đối tượng trong xã hội cả về quyền lợi và nghĩa vụ. “Tiêu chí công bằng, công khai, minh bạch trong chính sách là đòi hỏi không thể thiếu đối với hoạt động quản lý công.” [91] Tuy nhiên, tính công bằng, minh bạch trong các PACS cũng có những khó khăn. Thực tế, còn tồn tại mâu thuẫn trong việc xác định tính công bằng trong chính sách của Nhà nước. Quan niệm về công bằng, minh bạch trong chính sách của Nhà nước được hiểu theo hai cách, công bằng về quy trình và công bằng theo kết quả cuối cùng.
Là công cụ của quản lý Nhà nước, chính sách của Nhà nước cần thỏa mãn lợi ích của nhiều tầng lớp, giai cấp, đối tượng khác nhau trong xã hội. Vì vậy, việc xây dựng tiêu chí ĐGCS của Nhà nước cần phải đáp ứng yêu cầu vừa là thước đo cụ thể của vấn đề chính sách được đề cập, vừa phản ánh được lợi ích của đa số thành viên xã hội, được họ chấp nhận, phải đảm bảo công khai, minh bạch trong qua trình xây dựng cũng như triển khai chính sách (xin ý kiến cộng đồng, phổ biến trong cộng đồng), cũng như mở rộng sự tham gia dân chủ, rộng rãi của cộng đồng.
Tính bền vững của chính sách: Tiêu chí bền vững đặt ra đối với chính sách công sẽ đảm bảo độ dài của chính sách trong qua trình triển khai, thực hiện. Tính bền vững trong chính sách còn gắn với chi phí và lợi ích của chủ thể đưa ra chính sách cũng như đối tượng thực hiện và thụ hưởng chính sách. Bền vững, ổn định của chính sách công là cơ sở đảm bảo tính ổn định, bền vững về kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia cũng như góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của chính sách.
Tính bền vững được xác định bằng thời gian áp dụng chính sách, chu kỳ thực hiện và thời gian hiệu lực của chính sách. Thời gian đủ để triển khai, phổ biến chính sách cũng như đủ để các nội dung chính sách đi vào cuộc sống, khắc phục những chính sách ban hành chưa được triển khai hoặc chưa phát huy tác dụng trong thực tế đã hết hiệu lực hoặc hủy bỏ. Thời gian thực hiện chính sách phải gắn với chu kỳ, vòng đời của hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc hoạt động xã hội. Ví dụ: chính sách đầu tư cần phải thông thoáng, ổn định, bền vững. Thông thoáng mà không ổn định, bền vững là không được. Ổn định lâu dài, tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp, người dân mạnh dạn, yên tâm đầu tư
Tính ổn định, bền vững gắn bó chặt chẽ, biện chứng với tính hiệu lực, hiệu quảcủa chính sách.
Sự phù hợp của chính sách: Sự phù hợp của chính sách đánh giá mức độ thống nhất với các chính sách đã ban hành, phù hợp với chính sách do cơ quan có thẩm quyền cấp trên và những các cam kết quốc tế, tránh những trường hợp mâu thuẫn, vượt rào, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự phù hợp còn phản ánh khả năng ngân sách, nguồn lực và các điều kiện khác của địa phương nơi ban hành chính sách.
Sự phù hợp của chính sách được phản ánh ở khả năng triển khai, thực hiện trên thực tế của một chính sách.
Để đánh giá sự phù hợp thực thi của chính sách, cần phải dựa vào các chỉ tiêu cụ thể như: sự phù hợp với hệ thống luật pháp, sự phù hợp về kinh tế (nguồn lực, công nghệ, trình độ tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất – kinh doanh, thị trường, khả năng ngân sách, nguồn lực con người…) sự phù hợp về môi trường cũng như về xã hội (phong tục, tập quán, mức độ công chúng, cộng đồng chấp nhận, ủng hộ đề xuất chính sách…). Sự phù hợp của chính sách còn phải đánh giá mức độ thống nhất với các chính sách đã ban hành, phù hợp với chính sách do cơ quan có thẩm quyền cấp trên và những các cam kết quốc tế.
Để lại một bình luận